Ngày 17/6/2021, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Bộ Tư pháp đã có các văn bản gửi tới các bộ, ngành liên quan về vấn đề quản lý tiền công đức.
Phải phân định rõ "tiền công đức" và "tiền tài trợ"
Thượng tọa Thích Đức Thiện - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đại diện cho Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam - ký văn bản góp ý dự thảo thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, thu, chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội mà bộ này vừa đưa ra lấy ý kiến nhân dân hồi cuối tháng 4/2021.
Văn bản được gửi tới Ban Dân vận Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch.
Theo đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam góp ý thông tư “không đảm bảo tính chính xác, phổ thông, rõ ràng, dễ hiểu của ngôn ngữ văn bản pháp luật”. Cụ thể, thông tư sử dụng thuật ngữ “tiền công đức” nhưng không giải thích, định nghĩa trong chính văn bản dự thảo thông tư này cũng như trong bất kỳ văn bản pháp luật nào của Nhà nước.
Trong thực tế đời sống, thuật ngữ này chỉ được sử dụng cá biệt trong Phật giáo và một số tôn giáo, tín ngưỡng chứ không phải được sử dụng trong tất cả các tôn giáo ở Việt Nam. Cùng bản chất pháp lý như “tiền công đức” thì các tôn giáo khác sử dụng các từ như “tiền lễ”, “tiền khấn”, “tiền dâng”.
Vì vậy, dự thảo thông tư chỉ sử dụng thuật ngữ được dùng cá biệt cho Phật giáo và một số tôn giáo khác là “tiền công đức” sẽ không đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật.
Thứ nữa, theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, quy định này cũng không đảm bảo quyền sở hữu riêng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhà tu hành đã quy định trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Giáo hội dẫn ra các điều khoản trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Bộ luật Dân sự năm 2015 để khẳng định tổ chức tôn giáo có quyền “nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện tặng cho và nó là tài sản của giáo hội và nhà tu hành là thành viên của Giáo hội”.
Giáo hội cũng dẫn Điều 53 Hiến pháp năm 2013 để khẳng định tiền công đức không phải là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Giáo hội cho biết các cơ sở tôn giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng thời là di tích (đối tượng điều chỉnh của thông tư quản lý tiền công đức) và có hoạt động lễ hội thì có ba nguồn thu độc lập với ba chủ thể quản lý khác nhau:
Một là, tiền, tài sản công đức cho cơ sở tôn giáo, nhà tu hành để hoạt động tôn giáo, xây dựng cơ sở vật chất và nuôi dưỡng, bảo đảm sinh hoạt cho nhà tu hành thì thuộc quyền quản lý của trụ trì.
Hai là, tiền, tài sản tài trợ cho việc bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị của di tích thì thuộc quyền quản lý của ban quản lý di tích.
Ba là, tiền, tài sản tài trợ cho hoạt động lễ hội thì thuộc quyền quản lý của ban tổ chức lễ hội.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng dự thảo thông tư “rất mập mờ” giữa các loại tiền này, đánh đồng hai loại tiền có tính chất tâm linh (tiền công đức) và tính chất thế tục (tiền tài trợ). Theo Giáo hội, tiền công đức phải do giáo hội mà đại diện là các trụ trì quản lý chứ không phải Nhà nước trực tiếp quản lý và định đoạt như dự thảo thông tư quy định.
Giáo hội đề nghị Bộ Tài chính phân định rõ ràng, minh bạch “tiền công đức cho cơ sở tôn giáo, nhà tu hành” hoàn toàn khác với “tiền tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội”, để không quản lý tiền công đức.
Bởi nếu Nhà nước trực tiếp quản lý và định đoạt việc sử dụng tiền công đức “sẽ làm tục hóa, giải thiêng tiền công đức cúng dường Tam Bảo, làm tổn thương đến giáo lý, lễ nghi, niềm tin tôn giáo của tín đồ Phật tử”.
Giáo hội khuyến nghị Nhà nước không nên thế tục hóa tính thiêng của tiền công đức và cho rằng trong lịch sử pháp luật và lịch sử Phật giáo Việt Nam, chưa bao giờ xuất hiện việc Nhà nước trực tiếp quản lý và định đoạt việc sử dụng tài sản của Phật giáo.
Giáo hội kết luận dự thảo thông tư về quản lý thu - chi tiền công đức “không hợp hiến, không hợp pháp, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, không tôn trọng niềm tin, giáo lý và lễ nghi tôn giáo, không bảo đảm quyền sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo và nhà tu hành, không bảo đảm sự bình đẳng của các tôn giáo trước pháp luật và không khả thi trong thực tiễn”.
Vì vậy, Giáo hội kiến nghị Bộ Tài chính hoàn thiện dự thảo thông tư theo hướng hủy bỏ toàn bộ các quy định về quản lý thu, chi tiền công đức hoặc bổ sung quy phạm định nghĩa tiền công đức và xác định rõ Nhà nước không quản lý thu, chi tiền công đức được cúng dường (tặng cho) tổ chức, cơ sở tôn giáo, nhà tu hành.
Giáo hội cũng khẳng định nếu trong trường hợp thông tư vẫn giữ quy định Nhà nước quản lý thu, chi tiền công đức, Giáo hội Phật giáo Việt Nam “sẽ xem xét thay thế thuật ngữ "tiền công đức" bằng thuật ngữ "tiền cúng dường Tam Bảo" trong các văn bản và hoạt động tôn giáo của Giáo hội để tự bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của Giáo hội và nhà tu hành”.
Bộ Tư pháp nói gì?
Bộ Tư pháp cho rằng, việc ban hành thông tư là cần thiết. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại tình hình quản lý thu, chi tài chính cho công tác lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội trong 03 năm qua kể từ khi Nghị định 110/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đến nay để làm cơ sở xây dựng thông tư cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Về nội dung dự thảo văn bản, Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Tài chính cần rà soát tổng thể dự thảo thông tư với Luật Ngân sách Nhà nước và Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định 110/2016/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để đảm bảo tính hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, khả thi của thông tư.
Trong đó, Bộ Tư pháp đề nghị bỏ Điều 2 Dự thảo Thông tư về nguyên tắc quyên, tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản dâng cúng, công đức, tài trợ vì các nội dung cụ thể quy định tại Điều này không thuộc thẩm quyền của thông tư.
Cũng theo Bộ Tư pháp, Điều 5 Dự thảo Thông tư quy định về quản lý, thu, chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và hoạt động lễ hội. Tuy nhiên, dự thảo không quy định nguồn ngân sách Nhà nước mà hoàn toàn là nguồn tài trợ, công đức nên việc can thiệp, “đóng khung” các nội dung chi như Điều 5 Dự thảo Thông tư cần cân nhắc kỹ. Trường hợp cần thiết, có thể bổ sung quy định mang tính mở.
Bộ Tư pháp cũng đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu quy định rõ cơ chế báo cáo, cung cấp thông tin tại khoản 3 Điều 6 Dự thảo Thông tư vì quy định hiện nay tại dự thảo có thể bị lạm dụng (buộc báo cáo, cung cấp thông tin nhiều lần).
Theo Bộ Tư pháp, cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản cần tuân thủ khoản 2 Điều 101 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, trong quá trình soạn thảo thông tư, bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đối với thông tư có quy định liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì bộ trưởng thành lập hội đồng tư vấn thẩm định có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học.