Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận, công tác PCTN chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra và còn nhiều hạn chế, yếu kém.  Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp; tiếp tục là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân. 

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo được chuyển biến rõ rệt trong thời gian tới, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng tham nhũng thì phòng ngừa tham nhũng tiếp tục được xác định là biện pháp chính, cơ bản, lâu dài. Việc nội luật hóa và thực thi các quy định về phòng ngừa tham nhũng trong Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện và thực tiễn pháp lý của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng để bảo đảm khẩn trương xây dựng được cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”.

UNCAC đặt ra nhiều khuyến nghị, yêu cầu đối với các quốc gia thành viên về phòng ngừa tham nhũng, chủ yếu gồm những nội dung sau:

- Mỗi quốc gia thành viên đảm bảo việc có một cơ quan hoặc một số cơ quan khi thích hợp, có trách nhiệm thi hành chính sách phòng ngừa tham nhũng; khi thích hợp, giám sát, phối hợp việc thi hành những chính sách đó và nâng cao, phổ biến kiến thức về công tác phòng ngừa tham nhũng. Mỗi quốc gia thành viên sẽ dành cho các cơ quan PCTN nêu trên sự độc lập cần thiết trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước mình nhằm giúp cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào. 

- Mỗi quốc gia thành viên Công ước sẽ nỗ lực duy trì và củng cố chế độ tuyển dụng, thuê, giữ lại, đề bạt và hưu trí đối với công chức, và khi thích hợp, đối với cả những công chức không do bầu cử khác, gắn liền với việc thực thi bảo đảm các nguyên tắc hiệu quả, minh bạch và tiêu chí khách quan như năng lực, công bằng và năng khiếu; có quy trình thích hợp để lựa chọn, đào tạo cá nhân vào những vị trí được coi là rất dễ liên quan đến tham nhũng, và khi thích hợp, để luân chuyển các cá nhân đó sang những vị trí khác; khuyến khích việc trả công thoả đáng và trả lương công bằng, có xét tới mức độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thành viên; thúc đẩy các chương trình giáo dục và đào tạo công chức nhằm giúp họ đáp ứng được những yêu cầu về tính chính xác, sự chính trực và đúng đắn khi thực hiện công vụ.

- Mỗi quốc gia thành viên sẽ nỗ lực áp dụng, trong khuôn khổ hệ thống pháp luật và thể chế nước mình, những quy tắc hoặc chuẩn mực ứng xử để đảm bảo việc thực hiện chức năng công được chính xác, chính trực và đúng đắn; xem xét đề ra các biện pháp và cơ chế để tạo thuận lợi cho công chức báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền về các hành vi tham nhũng mà họ phát hiện được trong khi thi hành công vụ; báo cáo cơ quan có thẩm quyền về các vấn đề có liên quan trong đó có những hoạt động công việc, các khoản đầu tư bên ngoài hay tài sản hoặc quà tặng giá trị lớn, những thứ mà có thể gây xung đột lợi ích khi họ thực hiện công vụ. 

- Mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các bước cần thiết để xây dựng được các cơ chế mua sắm phù hợp dựa trên sự minh bạch, cạnh tranh và tiêu chí khách quan trong khâu ra quyết định, giúp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả… bảo đảm thủ tục thông qua ngân sách quốc gia; báo cáo kịp thời về thu và chi; hệ thống các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán, và cơ chế giám sát có liên quan; cơ chế quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ có hiệu quả và hữu hiệu; khi thích hợp, có biện pháp khắc phục trong trường hợp không tuân thủ những yêu cầu theo quy định; thực hiện các biện pháp hành chính và dân sự cần thiết đảm bảo sự minh bạch của sổ sách kế toán, chứng từ, báo cáo tài chính hoặc các tài liệu khác có liên quan. 

- Các quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp cần thiết để tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công, kể cả về tổ chức, quá trình thực hiện và ra quyết định; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân; đơn giản hóa thủ tục hành chính ở những khâu thích hợp nhằm tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận với cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; công bố thông tin, trong đó có thể bao gồm báo cáo định kỳ, về nguy cơ tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước.

- Các quốc gia thành viên phải ghi nhớ sự độc lập của cơ quan tư pháp và vai trò quan trọng của cơ quan này trong đấu tranh chống tham nhũng, đồng thời đề ra một số yêu cầu như mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp tăng cường tính liêm khiết cho cán bộ toà án và phòng ngừa những cơ hội tham nhũng đến với họ; những biện pháp tăng cường liêm khiết cho cán bộ toà án nêu trên có thể bao gồm việc ban hành bộ quy tắc ứng xử riêng cho cán bộ toà án. Những biện pháp được áp dụng đối với hệ thống toà án cũng đồng thời có thể được ban hành và áp dụng trong cơ quan công tố ở những quốc gia thành viên mà cơ quan công tố không trực thuộc hệ thống toà án mà có vị trí độc lập như các cơ quan tư pháp.

- Mỗi quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp để phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán trong khu vực tư; thúc đẩy xây dựng các chuẩn mực và thủ tục nhằm bảo vệ sự liêm khiết của các tổ chức tư nhân tương ứng, trong đó có quy tắc ứng xử về tính chính xác, tính chính trực và tính đúng đắn trong hoạt động kinh doanh và tất cả các nghề nghiệp liên quan, đồng thời thúc đẩy công tác phòng ngừa xung đột lợi ích, thúc đẩy nhân rộng các thực tiễn thương mại tốt trong hoạt động kinh doanh và trong quan hệ hợp đồng với quốc gia; phòng ngừa xung đột lợi ích bằng cách cấm, khi thấy phù hợp và trong một thời gian hợp lý, những người đã từng là công chức thực hiện các hoạt động nghề nghiệp hoặc cấm khu vực tư nhân tuyển dụng công chức vào làm việc sau khi họ đã từ chức hoặc về hưu nếu các hoạt động nghề nghiệp hoặc việc tuyển dụng đó có liên quan trực tiếp đến chức năng mà công chức này đảm nhiệm hoặc giám sát khi còn đương nhiệm. 

- Mỗi quốc gia sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công, như các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cộng đồng vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; và nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên nhân và tính chất nghiêm trọng cũng như sự đe dọa của tham nhũng. Tăng cường sự tham gia của xã hội dân sự trong PCTN; tiến hành các biện pháp thích hợp đảm bảo công chúng biết đến các cơ quan chống tham nhũng và phải cho phép tiếp cận với các cơ quan này khi thích hợp để công chúng có thể thông báo, kể cả dưới hình thức nặc danh, về bất kỳ sự kiện nào có thể được coi là cấu thành một tội phạm tham nhũng.

- Các quốc gia thành viên trong phạm vi thẩm quyền của mình, thiết lập một cơ chế giám sát và điều tiết toàn diện trong nước đối với các ngân hàng, các định chế tài chính phi ngân hàng, kể cả các cá nhân hay pháp nhân cung cấp dịch vụ chính thức hoặc không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị, và khi thích hợp, cả những cơ quan khác đặc biệt dễ liên quan đến rửa tiền, nhằm ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền; cơ chế điều tiết và giám sát này phải nhấn mạnh đến các yêu cầu về xác định khách hàng và cả người sở hữu hưởng lợi khi thích hợp, lưu giữ hồ sơ và báo cáo về các giao dịch đáng ngờ.

Nhìn chung, pháp luật của Việt Nam hiện nay đã cơ bản đáp ứng những yêu cầu chung của Công ước về phòng ngừa tham nhũng. Mặc dù vậy, vẫn còn có những nội dung chưa đáp ứng hoặc mới đáp ứng một phần các yêu cầu đó và trong lần sửa đổi Luật PCTN năm 2018 cần được xem xét để bổ sung, sửa đổi, cụ thể:

Một là, về cơ bản, Việt Nam chưa có các quy định về phòng ngừa tham nhũng trong khu vực tư theo yêu cầu của Công ước. Do hiện nay pháp luật Việt Nam chưa quy định về hành vi tham nhũng trong khu vực tư nên cũng chưa nội luật hoá các quy định về phòng ngừa tham nhũng trong khu vực tư. Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2015 lần đầu tiên đã bổ sung quy định về một số tội phạm tham nhũng trong khu vực tư như tham ô, đưa, nhận, môi giới hối lộ. Nếu xét theo khái niệm về phòng ngừa tham nhũng như đã nêu trên thì có thể coi đây là những quy phạm pháp luật đầu tiên nhằm ngăn chặn, răn đe hành vi tham nhũng trong khu vực tư, tạo tiền đề xây dựng các biện pháp PCTN trong khu vực tư. 

Hai là, pháp luật Việt Nam đã quy định biện pháp định kỳ chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức nhằm phòng ngừa tham nhũng. Về hình thức đã nội luật hoá yêu cầu của Công ước nhưng thực tế mới đáp ứng được một phần yêu cầu đó. Đối tượng phải định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo pháp luật của Việt Nam hiện nay chưa bao gồm những người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý, trong khi những đối tượng này có nhiều điều kiện để tham nhũng.

Ba là, pháp luật Việt Nam chưa quy định việc công chức phải kê khai những quà tặng có giá trị lớn. Mặc dù có quy định về kê khai tài sản và giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm mỗi năm một lần nhưng việc không yêu cầu kê khai những khoản quà tặng có giá trị lớn nhận được trong năm dẫn đến khó khăn trong việc theo dõi, kiểm soát thu nhập cũng như xác minh nguồn gốc tài sản tăng thêm khi cần thiết.

Bốn là, pháp luật Việt Nam chưa quy định việc cấm các tổ chức khu vực tư nhân tuyển dụng những người đã từng là công chức thực hiện các hoạt động nghề nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định sau khi họ đã từ chức hoặc về hưu nếu các hoạt động nghề nghiệp hoặc việc tuyển dụng đó có liên quan trực tiếp đến chức năng mà công chức này đảm nhiệm hoặc giám sát khi còn đương nhiệm. Hiện mới có quy định cấm công chức sau khi đảm nhiệm chức vụ trong thời hạn nhất định lại kinh doanh trong lĩnh vực mình quản lý. Tuy nhiên với quy định như vậy, khi xảy ra vi phạm thì khó xử lý vì không có cơ chế liên đới trách nhiệm của các tổ chức đã tuyển dụng.

Năm là, pháp luật Việt Nam chưa quy định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm báo cáo của cán bộ, công chức trong những tình huống xung đột lợi ích. Mặt khác, các quy định về phòng ngừa xung đột lợi ích lại thiếu tính hệ thống và không toàn diện, do đó khó khăn trong việc kiểm soát, ngăn chặn và xử lý vi phạm.

Sáu là, Công ước có quy định về hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20) theo đó, trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy.

Khi phê chuẩn Công ước, Việt Nam đã tuyên bố không bị ràng buộc bởi quy định này, do đó trong suốt thời gian qua, pháp luật Việt Nam chưa có quy định để xử lý đối với tài sản trong trường hợp người có chức vụ quyền hạn có tài sản tăng thêm nhưng không giải trình được hợp lý về nguồn gốc. Tuy nhiên, đây là một nội dung rất quan trọng liên quan đến biện pháp phòng ngừa tham nhũng mà Việt Nam đang triển khai rộng rãi là minh bạch tài sản, thu nhập và tiến tới để kiểm soát tài sản, thu nhập. 

Khi tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN, Chính phủ cũng đã chỉ rõ một trong những nội dung còn hạn chế, yếu kém là “chưa có quy định về việc xử lý tài sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý”. Do đó, Quốc hội cần xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc, không từ giác độ thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên Công ước mà xét đây là một kinh nghiệm tốt của thế giới, có thể góp phần hoàn thiện pháp luật phòng ngừa tham nhũng, nâng cao hiệu quả công tác PCTN của Việt Nam. 

Thực tế qua quá trình dự thảo, lấy ý kiến về Dự án Luật PCTN vừa qua cho thấy, đây thực sự là vấn đề quan trọng nhưng còn rất vướng mắc, nhiều ý kiến trái chiều. Dự báo đây sẽ là vấn đề thảo luận trọng tâm trong việc sửa đổi Luật PCTN tại kỳ họp tháng 10/2018 tới đây.

Ngoài việc quan tâm, hoàn thiện quy định của Luật PCTN liên quan đến các nội dung nêu trên, còn phải thực hiện đồng thời một số biện pháp khác như: Mở rộng các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức; tăng cường các biện pháp khuyến khích, thúc đẩy trách nhiệm PCTN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tham nhũng.

Tóm lại, qua gần 10 năm phê chuẩn và thực thi UNCAC, Việt Nam luôn khẳng định với toàn thế giới về quyết tâm chính trị và khả năng thực hiện công tác PCTN của mình. Đồng thời cũng là sự cam kết mạnh mẽ về việc tuân thủ và thực hiện đầy đủ những yêu cầu của Công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn, thể hiện là quốc gia có trách nhiệm trước những vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Do đó, việc rà soát hệ thống pháp luật PCTN nói chung và việc hoàn thiện các quy định về phòng ngừa tham nhũng trong lần sửa đổi Luật PCTN tới đây nói riêng có ý nghĩa cấp thiết, vừa là thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên Công ước nhưng quan trọng hơn, ý nghĩa hơn là phục vụ yêu cầu PCTN vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước.

 

ThS Ngô Mạnh Hùng
Phó Cục trưởng Cục PCTN - TTCP