Còn nhiều thách thức

Tại báo cáo "Cách mạng dữ liệu: Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội thương mại trên nền tảng số ở trong và ngoài nước như thế nào" của Công ty AlphaBeta cho biết, thương mại trên nền tảng số đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam lợi ích kinh tế trị giá lên đến 81.000 tỷ đồng vào năm 2017, thông qua việc thúc đẩy các công nghệ kỹ thuật số, giúp tăng năng suất lao động, giảm chi phí và tạo ra nguồn doanh thu mới. Giá trị tương đương với 1,7% GDP Việt Nam.

Theo ông Konstantin Matthies, đại diện Công ty AlphaBeta, nếu thương mại trên nền tảng số được tận dụng triệt để, giá trị ước tính cho các ngành nội địa của Việt Nam có thể tăng gấp 12 lần, đạt 953 nghìn tỷ đồng (42 tỷ USD) vào năm 2030.

Tuy nhiên, cho đến nay tầm quan trọng của thương mại trên nền tảng số trong việc giúp Việt Nam đạt được tầm nhìn này vẫn còn ít được chú ý. Các số liệu kinh tế truyền thống đã không còn theo kịp tốc độ tăng trưởng chóng mặt của nền kinh tế kỹ thuật số và hiện thiếu đi dữ liệu đủ mạnh để đo lường tầm quan trọng của thương mại trên nền tảng số đối với xuất khẩu hoặc đối với nền kinh tế quốc nội.

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đề cập 3 khía cạnh đang là thách thức hiện nay, trong đó, số 1 là các vấn đề dữ liệu. Dữ liệu của Việt Nam hiện nay vừa thiếu, vừa không kịp thời, ngay cả số liệu của Tổng cục Thống kê nhiều khi cũng có độ vênh, thiếu tính cập nhật hoặc công bố xong ít hôm sau lại điều chỉnh.

Thứ 2, theo bà Lan là nằm ở hệ thống pháp luật chưa đủ minh bạch và nhất quán. Bà Lan cho rằng, mấy năm gần đây Nhà nước đưa ra hàng loạt quy định khuyến khích phát triển công nghệ cao để có năng suất lao động cao hơn nhưng căn bệnh ở chỗ ngay cả quy định mới cũng chưa đủ độ minh bạch và nhất quán nên tính khả thi yếu, có những quy định tốt mà doanh nghiệp không tiếp cận được.

"Hệ thống luật có hàng loạt quy định chuyên ngành gây ra nhiều rào cản, quá rối rắm, thiếu vắng tính đồng bộ", bà Lan nhận định.

Khía cạnh thứ ba đó là, thương mại điện tử ở Việt Nam vẫn còn nhiều doanh nghiệp lúng túng do vướng mắc về thanh toán điện tử, chữ ký điện tử. Mặt khác, là vấn đề tập quán kinh doanh, khi 98% doanh nghiệp của Việt Nam là siêu nhỏ, nhỏ và vừa, quy mô kinh doanh nhỏ có nhiều hạn chế như quy mô, thương mại bán buôn bán lẻ nhiều mặt hàng làm phân tán, thiếu đi tính chuyên môn cần thiết, quản trị... hoặc việc liên kết nội ngành, giữa các ngành với nhau vẫn yếu... trình độ quản trị hạn chế và năng lực tài chính hạn hẹp.

Nhiều cơ hội cho thương mại số phát triển

Các chuyên gia nhấn mạnh, chính từ những thách thức này, Việt Nam đang khao khát vươn lên, phát triển mạnh mẽ hơn. Cách đây 2 năm chỉ số sáng tạo của Lào xếp hạng cao hơn Việt Nam làm cho chúng ta tỉnh hơn, thấy phải cố gắng nhiều hơn.

Đưa ra những cơ hội lớn để Việt Nam có thể tiếp cận được với thương mại số, kinh tế số nói chung, bà Lan cho biết, Việt Nam cần hành động 3 lĩnh vực quan trọng đó là, thay đổi mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và khoa học công nghệ; quyết tâm của Chính phủ trong phát triển kinh tế số và áp lực về hội nhập không có lý do gì Việt Nam không làm và cơ hội từ dân số vàng - nguồn lực lớn nhất của Việt Nam nằm ở những người trẻ.

"Trong 5-10 năm tới, chúng ta sẽ đạt được nhiều thành tựu trong thương mại số", bà Lan khẳng định.

Mặt khác, cần đảm bảo sự rõ ràng liên quan đến loại dữ liệu sẽ được chia sẻ, ranh giới chia sẻ và hình thức chấp thuận của người dùng cần phải có; khuyến khích khả năng tương tác giữa các khung cơ sở kỹ thuật số; giảm bớt những yêu cầu nghiêm ngặt về việc thiết lập ở địa phương xem xét việc giảm thuế suất tối đa cho mặt hàng công nghệ thông tin; đồng thời, giảm bớt những hạn chế về đầu tư nước ngoài, chính sách cạnh tranh và luồng dữ liệu xuyên biên giới…

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM nhìn nhận, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đem tới nhiều thay đổi đột phá, trong đó, kinh tế số đã và đang nhanh chóng bao phủ các lĩnh vực của nền kinh tế. Đặc biệt, thương mại trên nền tảng số là một xu thế phát triển chung ở nhiều quốc gia, có tiềm năng hỗ trợ cho năng suất, tăng trưởng và hiệu quả chi phí.

Còn ông Konstantin Matthies cho rằng, Việt Nam nên có hành động trong 3 lĩnh vực quan trọng để giải quyết những lo ngại liên quan đến thương mại số: Một là, cụ thể hoá loại dữ liệu được chia sẻ, ranh giới chia sẻ và hình thức chấp thuận của người dùng, khuyến khích khả năng tương tác giữa các khung cơ sở kỹ thuật số. 

Hai là, đặt ra những quy định về trách nhiệm trung gian trên internet một cách cân bằng, trong đó lưu ý đến chính sách “bến cảng an toàn” để quy định trách nhiệm của nền tảng đối với nội dung được phân phối qua các nền tảng Internet. 

Ba là, giảm bớt những yêu cầu nghiêm ngặt về việc thiết lập cơ sở lưu trữ dữ liệu ở địa phương; xem xét giảm thuế cho mặt hàng công nghệ thông tin; giảm bớt những hạn chế về đầu tư nước ngoài, chính sách cạnh tranh và luồng dữ liệu xuyên biên giới. 

Thái Hải