Dự thảo Nghị quyết về miễn thuế SDĐNN được đưa ra với thời gian miễn thuế SDĐNN 10 năm, từ 01/01/2021 đến hết 31/12/2030, số thuế được miễn giảm khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.

Đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính quan trọng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Qua đó, giúp người nông dân cải thiện cuộc sống, giảm bớt khó khăn, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, chính sách miễn giảm thuế SDĐNN là biện pháp khuyến nông, góp phần khuyến khích tập trung đất nông nghiệp để phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản, tăng thu nhập cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông thôn.

Bộ Tài chính cho biết, miễn giảm thuế SDĐNN giai đoạn từ 2003 - 2010 được thực hiện theo Nghị quyết số 15/2003/QH11. Tổng diện tích đất nông nghiệp chịu thuế bình quân là 6.485ha/năm; tổng số đối tượng phải chịu thuế bình quân là 11.172 người nộp thuế/năm; tổng diện tích đất nông nghiệp được miễn giảm bình quân khoảng 6.049ha/năm; tổng số đối tượng được miễn giảm là 10.870 người nộp thuế/năm; tổng số thuế miễn giảm bình quân là 3.268 tỷ đồng/năm.

Giai đoạn từ 2011 - 2016 được thực hiện theo Nghị quyết số 55/2010/QH12. Tổng diện tích đất nông nghiệp chịu thuế là 7.216ha/năm; tổng số đối tượng phải chịu thuế bình quân là 12.179 người nộp thuế/năm; tổng diện tích đất nông nghiệp được miễn giảm khoảng 7.076ha/năm; tổng số đối tượng được miễn giảm bình quân là 12.069 người nộp thuế/năm; tổng số thuế miễn giảm là 6.008 tỷ đồng/năm.

Giai đoạn từ 2017 - 2018, thực hiện theo Nghị quyết số 28/2016/QH14, tổng diện tích đất nông nghiệp chịu thuế bình quân là 8.115ha/năm; tổng số đối tượng phải chịu thuế bình quân là 12.091 người nộp thuế/năm; tổng số thuế miễn giảm bình quân là 7.438 tỷ đồng/năm.

Việc miễn giảm thuế SDĐNN góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản chỉ đạt 4,7 tỉ USD; năm 2005 đã tăng lên 8,5 tỉ USD, gấp 2,1 lần năm 2001; năm 2007 đạt 10,9 tỉ USD và đến năm 2010 đạt 19,5 tỉ USD tăng gần 5 lần so với năm 2001.

Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 25 tỉ USD, đến năm 2018, kim ngạch xuất khẩu nông sản đã đạt 40,5 tỉ USD, tăng 10 lần so với năm 2001.

Từ những phân tích nêu trên, Bộ Tài chính kiến nghị với Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự thảo Nghị quyết về miễn thuế SDĐNN vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV.

Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục thực hiện miễn thuế SDĐNN đối với các đối tượng như quy định hiện hành tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 và Nghị quyết số 28/2016/QH14 từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 31/12/2030 (trong đó có hoàn chỉnh lại một số câu chữ cho phù hợp với quy định của Luật Đất đai 2013). Cụ thể:

Miễn thuế SDĐNN đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm mà chưa chuyển sang thuê đất.

Miễn thuế SDĐNN đối với toàn bộ diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối.

Miễn thuế SDĐNN đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ nghèo, cộng đồng dân cư.

Kiến nghị miễn thuế SDĐNN đối với diện tích đất làm muối. Ảnh: TQ

Miễn thuế SDĐNN đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp cho các đối tượng sau: Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả đất được thừa kế, tặng cho, nhận chuyển quyền sử dụng đất; Hộ gia đình, cá nhân là thành viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, nông trường viên, lâm trường viên đã nhận đất giao khoán ổn định của hợp tác xã, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật; Hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp góp quyền SDĐNN của mình để thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo quy định của Luật Hợp tác xã.

Miễn thuế SDĐNN đối với diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức đang trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp.

Tổ chức được Nhà nước giao đất nông nghiệp nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì thực hiện thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai; trong thời gian Nhà nước chưa thu hồi đất thì phải nộp 100% thuế.

Trần Quý