Nội dung tố cáo về việc ông Phụng bao che lý lịch tư pháp cho ông Hoàng Kim Vinh là sai, vì: Ngày 21/10/2014, ông Hoàng Kim Vinh có tờ khai yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp (tờ khai dành cho cá nhân có yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp) gửi Sở Tư pháp tỉnh để yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 với mục đích là: “Bổ sung hồ sơ bổ nhiệm thừa phát lại và đấu giá viên”.

Căn cứ vào yêu cầu đó, Sở Tư pháp tiến hành xác minh thông tin lý lịch tư pháp theo yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 của ông Hoàng Kim Vinh tại một số cơ quan có liên quan đều không còn lưu trữ bản án hay hồ sơ liên quan đến ông Vinh. Do đó, Sở Tư pháp không đủ căn cứ để khẳng định ông Vinh có án tích hay không có án tích nên sau khi có hướng dẫn nghiệp vụ từ Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia - Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước cấp phiếu lý lịch tư pháp cho ông Vinh với nội dung: Không có án tích, theo Điểm b, Khoản 2, Điều 42 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 quy định: “Đối với người được xoá án tích và thông tin về việc xoá án tích đã được cập nhật vào lý lịch tư pháp thì ghi “không có án tích””.

Tổ xác minh đã làm việc với Công an tỉnh Bình Phước, đơn vị này đã cung cấp cho tổ xác minh Bản kết luận điều tra vụ án số 09/KLĐT-PC16 ngày 29/4/1988 của Công an tỉnh Sông Bé với ông Hoàng Kim Vinh, can tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, Bản án số 47/HS.ST ngày 10/10/1988 của Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, vụ Hoàng Kim Vinh trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc ông Vinh bị kết án năm 1988, theo quy định pháp luật đến thời điểm đề nghị cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 đương nhiên được xóa án tích, căn cứ Luật Lý lịch tư pháp năm 2009. Ngày 07/9/2016, Sở Tư pháp đã cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 cho ông Hoàng Kim Vinh với tình trạng án tích: “Không có án tích” là phù hợp với quy định.

Nội dung tố cáo việc chỉ đạo lập hồ sơ bổ nhiệm công chứng viên cho ông Hoàng Kim Vinh trái pháp luật là sai vì:

Theo quy định tại thời điểm năm 2014, bộ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đối với ông Hoàng Kim Vinh được áp dụng theo quy định tại Khoản 2, Điều 18, Luật Công chứng năm 2006 và quy định tại Điểm c và d, Điều 1 Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng, quản lý Nhà nước về công chứng quy định: “Đối với hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của người được miễn đào tạo nghề công chứng, người được miễn tập sự hành nghề công chứng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các việc sau đây: Sở Tư pháp nơi người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đăng ký thường trú tiếp nhận hồ sơ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra, xem xét, trường hợp đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật thì nộp trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ cơ quan Bộ Tư pháp hoặc qua hệ thống bưu chính đến Bộ Tư pháp, ngoài bì ghi rõ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên (điểm c).

Người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính xác thực của những giấy tờ và tính chính xác của các thông tin đã khai trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Trong trường hợp cần thiết, Bộ Tư pháp tiến hành xác minh tính chính xác, tính xác thực của những giấy tờ và thông tin đã được cung cấp trong hồ sơ. Người có hành vi giả mạo, gian dối trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên thì không được xem xét để bổ nhiệm công chứng viên và tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật” (điểm d).

Căn cứ đơn đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của ông Hoàng Kim Vinh, ngày 20/8/2014 và hồ sơ kèm theo; căn cứ vào những quy định trên và hồ sơ của công dân, ngày 10/9/2014, Sở Tư pháp có Công văn số 609/STP-BTTP về đề nghị bổ nhiệm công chứng viên cho ông Hoàng Kim Vinh, theo quy định, trong thành phần hồ sơ không có lý lịch tư pháp mà chỉ có sơ yếu lý lịch, trong đó, sơ yếu lý lịch do người đề nghị bổ nhiệm tự viết và chịu trách nhiệm về tính xác thực và chính xác trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên; ngày 1/10/2014, Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 2242/QĐ-BTP về bổ nhiệm công chứng viên cho ông Hoàng Kim Vinh. Mặt khác, qua làm việc với cơ quan xác minh người tố cáo không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc ông Bùi Quang Phụng - nguyên Giám đốc Sở Tư pháp chỉ đạo cho công chức do mình quản lý lập hồ sơ bổ nhiệm công chứng viên cho ông Hoàng Kim Vinh trái pháp luật.

Ngoài ra, người tố cáo còn tố cáo ông Hoàng Kim Vinh đã che giấu việc mình đã bị kết án về tội phạm do cố ý kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không đầy đủ, không trung thực để có đủ điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên vì cho rằng: Căn cứ vào Bản kết luận điều tra vụ án số 09/KLĐT-PC16 ngày 29/4/1988 của Công an tỉnh Sông Bé với ông Hoàng Kim Vinh với tội danh, tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa; Bản án số 47/HS.ST ngày 10/10/1988 của Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, vụ Hoàng Kim Vinh trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì ông Hoàng Kim Vinh không đủ điều điều bổ nhiệm công chứng viên vì ông Vinh “đã bị kết án về tội phạm do cố ý” theo quy định tại khoản 1, Điều 19 Luật Công chứng năm 2006, thì người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích về tội phạm do vô ý; đã bị kết án về tội phạm do cố ý không được bổ nhiệm công chứng viên”.

Đồng thời, sẽ bị miễn nhiệm công chứng viên theo điểm g, Khoản 2, Điều 15 Luật Công chứng năm 2014 “Công chứng viên bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của tòa án sẽ bị miễn nhiệm.

Nội dung này thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì căn cứ Khoản 4, Điều 12, Luật Công chứng năm 2014, thì thẩm quyền bổ nhiệm công chứng viên là do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định và Quyết định số 2242/QĐ-BTP về bổ nhiệm công chứng viên cho ông Hoàng Kim Vinh ngày 1/10/2014 là do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký bổ nhiệm. UBND tỉnh Bình Phước đã chỉ đạo Sở Tư pháp có văn bản gửi Bộ Tư pháp xem xét, đồng thời hướng dẫn công dân gửi đơn đến Bộ Tư pháp để được giải quyết theo thẩm quyền.

Lê An