Trong đó: 400 m2 đất ở; 199,6 m2 đất vườn cùng thửa đất ở được bồi thường, hỗ trợ như đất ở; 838 m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm; 190 m2 đất giao thông do UBND xã quản lý không đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ.

Không đồng ý với quyết định thu hồi đất, ông Phạm Văn Yên (thôn 6, xã Tân Trường, thị xã Nghi Sơn) khiếu nại được thu hồi, bồi thường diện tích 838,0 m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm và 190 m2 đất giao thông do UBND xã quản lý là đất ở.

Khiếu nại của ông Phạm Văn Yên đã được Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn xem xét, giải quyết tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 9869/QĐ- UBND ngày 18/12/2020.

Không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn, ông Phạm Văn Yên khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh.

Nội dung làm việc, đối thoại với công dân khiếu nại

Ông Phạm Văn Yên báo cáo thửa đất đang khiếu nại có nguồn gốc là đất được mua của ông Lê Văn Thơ ngày 16/4/1991 (không có giấy tờ mua bán).

Thửa đất ông Thơ bán, được bố mẹ khai hoang từ năm 1963, đến năm 1975 cho tặng ông Thơ để ở.

Sau khi mua đất và nhà của ông Lê Văn Thơ, khoảng 03 năm sau hộ ông Phạm Văn Yên tạo ra con đường trong khuôn viên đất của gia đình để tiện đi lại sang nhà bà Lê Thị Đát (mẹ ông Yên).

Khoảng cuối năm 1992, bà Đát mua đất nhà ông Lê Đăng Dung, lúc đó đường đi vào nhà ông Dung là đường vào Trường mầm non của xã Tân Trường bây giờ.

Thửa đất ông Yên đang khiếu nại đã được cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất năm 1994 (Hội đồng Bồi thường hỗ trợ và Tái định cư dự án đã thu hồi GCN khi triển khai bồi thường).

Xác minh, làm việc với các tổ chức và đơn vị liên quan

Nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất của hộ ông Phạm Văn Yên

Biên bản hội nghị ngày 26/02/2020 của Hội đồng Xác định nguồn gốc đất xã Tân Trường nêu rõ: Hộ ông Phạm Văn Yên đang sử dụng thửa đất số 47, tờ bản đồ số 10, trích đo bản đồ hiện trạng năm 2019 có nguồn gốc nhận chuyển nhượng từ hộ ông Lê Văn Thơ vào năm 1991, là thửa đất có vườn ao, có nhà ở thuộc khu dân cư hình thành trước ngày 18/12/1980, sử dụng ổn định, liên tục vào mục đích đất ở, không tranh chấp.

Diện tích hiện trạng lớn hơn diện tích được cấp GCN quyền sử dụng dụng đất là do việc kê khai cấp GCN trước đây thiếu chính xác, ranh giới sử dụng đất có phần diện tích 190m2 đo vẽ lên phần diện tích bản đồ năm 1998 thể hiện là đất đường giao thông và 838 m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 975, 976, tờ bản đồ số 18, bản đồ năm 19981; hiện trạng gia đình sử dụng khuôn viên thửa đất có nhà ở không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề.

Do đó, diện tích đang sử dụng 1.627,6 m2 gồm: 400 m2 đất ở (đối với miền núi), 199,6 m2 đất vườn cùng thửa đất có nhà ở hình thành trước ngày 18/12/1980; 838 m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, 190m2 đất đường giao thông không đủ điều kiện bồi thường.

Làm việc với phòng Tài nguyên và Môi trường, Ban Giải phóng mặt bằng hỗ trợ và tái định cư thị xã Nghi Sơn và UBND xã Tân Trường

Ngày 06/01/1994, UBND huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn) đã cấp GCN quyền sử dụng đất cho ông Phạm Văn Yên diện tích 2.292 m2, trong đó thể hiện: 200m2 đất thổ cư, 364m2 kinh tế phụ (KT) 1 lúa thuộc cùng 1 thửa đất 336, tờ bản đồ số 2, hồ sơ địa chính theo chỉ thị 299; diện tích đất còn lại: 500 m2 đất 1 lúa, 1.228 m2 đất 2 lúa thuộc các thửa đất khác trên hồ sơ địa chính theo Chỉ thị 299.

Phòng Tài nguyên và Môi trường báo cáo, xác định: Ông Phạm Văn Yên được UBND huyện Tĩnh Gia cấp GCN quyền sử dụng đất năm 1994, diện tích 200m2 đất thổ cư có nhà ở và diện tích kinh tế phụ 364m2 thuộc cùng thửa đất số 336, tờ bản đồ số 02 trên hồ sơ địa chính 299 là thể hiện chưa chính xác về vị trí số thửa; thực tế toàn bộ diện tích 564 m2 thuộc một phần phạm vi diện tích đất chưa được đo vẽ giáp với thửa đất 336, tờ bản đồ số 02, bản đồ địa chính 299 xã Tân Trường.

Tổng diện tích 564 m2 có nhà ở của ông Phạm Văn Yên được UBND huyện Tĩnh Gia cấp trong GCN quyền sử dụng đất năm 1994, trên 1 (thửa đất ở có nhà ở là thửa số 671, tờ bản đồ số 18, bản đồ năm 1998) bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998 được xác định là thửa đất số 671, tờ bản đồ số 18, diện tích 534 m2, loại đất T, mục kê ghi chủ sử dụng là Phạm Văn Yên.

Theo kết quả số hóa bản đồ theo tỷ lệ, kích thước các cạnh của thửa đất 671, tờ bản đồ số 18, bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998 phục vụ giải phóng mặt bằng dự án, xác định diện tích thửa đất 671 thực tế là 599,6m2.

Theo bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998 thể hiện: Chỉ có một đường duy nhất đi vào thửa đất số 1004, diện tích 1.500 m2, loại đất T, sổ mục kê ghi Lê Văn Tiến (thực tế chủ sử dụng là bà Lê Thị Đát - mẹ ông Phạm Văn Yên).

Hồ sơ bồi thường đất thực hiện dự án

Quyết định số 6497/QĐ-UBND ngày 10/9/2020 của UBND thị xã Nghi Sơn về việc thu hồi đất do ông Phạm Văn Yên tại xã Tân Trường để thực hiện Dự án: Thu hồi thửa đất số 47, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.627,6 m2, trong đó: 400m2 đất ở; 199,6m2 đất vườn cùng thửa đất ở được bồi thường, hỗ trợ như đất ở; 838m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm; 190m2 đất giao thông do UBND xã quản lý, không đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ.

Quyết định số 6481/QĐ-UBND ngày 10/9/2020 của UBND thị xã Nghi Sơn về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại xã Tân Trường thực hiện Dự án (đợt 9): Hộ ông Phạm Văn Yên được bồi thường, hỗ trợ với tổng số tiền 3.192.302.600 đồng, bao gồm: Bồi thường đất đai: 1.515.760.000 đồng, vật kiến trúc: 1.597.202.000 đồng, cây hoa màu: 54.200.600 đồng, hỗ trợ: 25.140.000 đồng.

Kết luận của lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa

Thửa đất ông Phạm Văn Yên nhận chuyển nhượng của ông Lê Văn Thơ năm 1990 đã được UBND huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn) cấp GCN quyền sử dụng đất ngày 06/01/1994, trong đó: 200 m2 đất thổ cư, 364 m2 KT phụ 1 lúa; được xác định tại thửa đất số 671, tờ bản đồ số 18, bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998, diện tích 534 m2, loại đất T. Theo kết quả số hóa bản đồ theo tỷ lệ, kích thước các cạnh thửa đất từ bản đồ địa chính năm 1998 để phục vụ giải phóng mặt bằng dự án, xác định diện tích thửa đất 671 là 599,6m2. Ông Yên đã được bồi thường 400m2 đất ở và 199,6 m2 đất vườn cùng thửa đất ở được bồi thường, hỗ trợ như đất ở.

Về diện tích 838 m2 thu hồi, bồi thường là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm; ông Phạm Văn Yên đang khiếu nại đòi bồi thường là đất ở: Theo bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998 thể hiện, diện tích 838m2 thuộc thửa 975, diện tích 608 m2, loại đất T (sổ mục kê ghi đất 2L) và thửa 976, diện tích 230 m2, loại đất T (sổ mục kê ghi đất 2L); không cùng thửa với thửa đất ở có nhà ở (thửa 671) của gia đình ông Yên.

Căn cứ quy định tại khoản 1, điều 103, Luật Đất đai năm 2013 : “Đất vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất đang có nhà ở”. Ông Phạm Văn Yên khiếu nại được thu hồi, bồi thường là đất ở đối với diện tích 838 m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm là không có cơ sở.

Về diện tích đất 190m2: Theo Bản đồ địa chính xã Tân Trường đo vẽ năm 1998 thể hiện là diện tích đường giao thông; không thuộc thửa đất có nhà ở của ông Phạm Văn Yên (thửa đất có nhà ở là thửa số 671, hồ sơ địa chính năm 1998, đã được thu hồi bồi thường hết diện tích).

Đối chiếu với các quy định nêu trên, ông Phạm Văn Yên khiếu nại được thu hồi, bồi thường diện tích 190 m2 là đất ở là không có cơ sở.

Từ kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và các căn cứ pháp luật nêu trên, ngày 16/5/2022, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Lê Đức Giang đã quyết định ông Phạm Văn Yên khiếu nại và đề nghị được thu hồi, bồi thường là đất ở đối với diện tích 838 m2 đất nông nghiệp trồng cây lâu năm và 190 m2 đất giao thông là không có cơ sở.

Huyền Anh