Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang, đất của các ông Thường, ông Chuyền và một số hộ dân khiếu nại là đất được các hộ tự khai phá, tân tạo các thùng, vũng do trước đây lấy đất để đắp bờ vùng, bờ thửa. Năm 1993 - 1994, khi thực hiện Nghị định số 64 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sử dụng đất nông nghiệp, thôn My Điền không đưa diện tích đất nói trên vào giao theo định suất cho các hộ mà vẫn để các hộ canh tác, sử dụng.

Trong quá trình thiết lập hồ sơ thu hồi trình UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt để xây dựng Khu công nghiệp Vân Trung, Hội đồng Bồi thường giải phóng mặt bằng của huyện Việt Yên đã không căn cứ vào nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của các hộ để lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ có đất bị thu hồi theo quy định tại điểm c Khoản 1, Điều 44, Điều 45, Nghị định số 84 của Chính phủ mà lại dựa vào việc họp, thống nhất giữa Ban quản lý thôn và nhân dân để xác định đó là đất phục hóa và chỉ xem xét phê duyệt hỗ trợ cho các hộ dân là chưa đúng quy định.

Tuy nhiên, khi công dân có ý kiến đề nghị, Chủ tịch UBND huyện Việt Yên đã chỉ đạo xác minh, làm rõ và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ theo đúng quy định tại điểm c, Khoản 1 các Điều 44, Điều 45 Nghị định số 84 của Chính phủ.

Việc ông Thường, ông Chuyền và một số hộ dân đề nghị Nhà nước xem xét bố trí đất ở kinh doanh dịch vụ theo quy định tại Điều 9 Bản quy định kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Giang, nếu không bố trí đất ở kinh doanh, dịch vụ thì phê duyệt giá đất theo thời điểm năm 2012 là không có cơ sở.

Cụ thể, nội dung đề nghị được giao đất ở kinh doanh, dịch vụ, theo quy định tại Khoản 1, Điều 9 Bản quy định kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Giang, chỉ những hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được giao ổn định lâu dài thì được hỗ trợ giao đất ở kinh doanh dịch vụ. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp giao ổn định lâu dài 1.500m2 đối với thành phố Bắc Giang; 1250m2 đối với các huyện, người bị thu hồi đất được giao 1 lô đất theo quy hoạch phân lô của dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; các hộ có diện tích đất bị thu hồi lớn hơn hoặc nhỏ hơn 1 lô đất theo quy hoạch phân lô của dự án thì được ghép vói nhau để giao đất; mức giao đất ở và kinh doanh dịch vụ cho một hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất tối đa không quá 2 lô.

Các hộ đang có đơn khiếu nại, cũng đã được Nhà nước xem xét giao đất ở kinh doanh, dịch vụ khi bị thu hồi đất nông nghiệp giao ổn định lâu dài; diện tích đất các hộ đang khiếu nại là đất nông nghiệp tự khai phá, tân tạo sử dụng, không thuộc diện đất nông nghiệp giao ổn định lâu dài, nên không đủ điều kiện để hỗ trợ đất ở kinh doanh, dịch vụ theo quy định nói trên.

Đối với nội dung đề nghị về phê duyệt giá đất theo đơn giá năm 2012, qua xem xét, đối chiếu bảng giá đất nông nghiệp tại Bảng giá số 01 tại Quyết định số 102 với bảng giá đất nông nghiệp kèm theo Quyết định số 480/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Giang về việc ban hành Bảng mức giá các loại đất năm 2008 và năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, cho thấy giá đất trồng lúa và trồng cây hàng năm trên địa bàn các xã trung du của tỉnh là cùng mức giá (40.000đ/m2). Do đó, năm 2012 UBND huyện Việt Yên phê duyệt giá bồi thường, bổ sung cho các hộ là đúng giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án.

Giải quyết của Chủ tịch UBND huyện Việt Yên tại Quyết định số 11152/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Phùng Minh Thường, ông Phùng Văn Chuyền và một số công dân trú tại thôn My Điền 2, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang là chính xác, khách quan đảm bảo quy định pháp luật.

Từ những căn cứ trên, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định thống nhất với Quyết định số 11152 của Chủ tịch UBND huyện Việt Yên về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Thường, ông Chuyên và một sô công dân trú tại thôn My Điền 2, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên.

B.B.Đ