“Ước cả năm đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu kế hoạch đề ra”, người đứng đầu Chính phủ nói.

Tăng trưởng GDP cả năm 2022 ước đạt 8%

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm trong điều kiện gặp nhiều khó khăn.

Nhiều con số tích cực đã được Thủ tướng đề cập đến. Trong đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 2,73%, ước cả năm khoảng 4%. Công tác điều hành giá được chỉ đạo quyết liệt, sát sao, hiệu quả, nhất là với xăng, dầu, điện, các dịch vụ giáo dục, y tế...

Thị trường tiền tệ, mặt bằng lãi suất, tỷ giá tương đối ổn định; tăng trưởng tín dụng 9 tháng đạt khoảng 11%, tập trung nhiều cho sản xuất kinh doanh.

Đáng chú ý, tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 8,83%; ước cả năm đạt khoảng 8%, (mục tiêu Quốc hội giao là 6 - 6,5%).

“Sự phục hồi kinh tế diễn ra khá đồng đều giữa các địa phương, trong đó nhiều địa phương đạt tốc độ tăng trưởng cao”, Thủ tướng cho hay.

Thu ngân sách nhà nước 9 tháng đạt 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ; ước cả năm vượt 14,3%, tăng 2,9% so với năm ngoài.

Doanh nghiệp phát triển có nhiều khởi sắc khi trong 9 tháng có hơn 163 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động trở lại, tăng 38,6%, gấp 1,4 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.

Các ngân hàng thương mại yếu kém, doanh nghiệp thua lỗ, dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả kéo dài đã và đang được quyết liệt tháo gỡ, xử lý; thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt kết quả tích cực

Theo báo cáo gửi đến Quốc hội, các khoản nợ của các tổ chức tín dụng, đã thu được trên 22 nghìn tỷ đồng. Các khoản thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng kinh tế đã thu được gần 16 nghìn tỷ đồng.

Việc rà soát, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế được triển khai tích cực, hiệu quả. Đến nay đã giảm 7 tổng cục và tương đương; giảm 10 cục (thuộc bộ và thuộc tổng cục); giảm 60 vụ và tương đương (thuộc bộ và thuộc tổng cục); giảm 9 đơn vị sự nghiệp công lập.

Chính phủ dự kiến sẽ giảm tiếp 17 tổng cục và tương đương, 10 cục và 145 vụ/ban thuộc tổng cục, bộ; 22 đơn vị sự nghiệp và giảm căn bản phòng trong vụ.

Với công tác an sinh xã hội, Thủ tướng nói, đã được triển khai thiết thực, kịp thời, hiệu quả”. Đến nay đã hỗ trợ khoảng 87 nghìn tỷ đồng cho gần 56 triệu lượt người dân, người lao động và trên 730 nghìn lượt người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19…

Sức ép lạm phát lớn, còn một bộ phận cán bộ né tránh trách nhiệm

Dù vậy, theo người đứng đầu Chính phủ, còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn trên các lĩnh vực.

“Ổn định kinh tế vĩ mô đối mặt với nhiều thách thức, sức ép lạm phát lớn, giá xăng, dầu, nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh; các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp”, ông cho hay.

Giải ngân vốn đầu tư công còn chậm. Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Nợ xấu, nợ thuế có xu hướng tăng. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn.

Trong khi đó, đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn. Tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động còn thấp. Tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế tại một số cơ sở khám chữa bệnh chưa được xử lý dứt điểm.

Đáng lưu ý, xuất hiện tình trạng một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc, chuyển việc, nhất là trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Báo cáo cho thấy, tổng số cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc là 39.552 người, chiếm 1,94% số biên chế giao năm 2021.

Ngoài ra, kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc, có nơi chưa nghiêm; còn một số cán bộ, công chức vi phạm quy định, bị xử lý kỷ luật. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, đấu tranh phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, thách thức…

leftcenterrightdel
Toàn cảnh phiên khai mạc kỳ họp 4 Quốc hội khóa XV. Ảnh: Đ.X 

Theo Thủ tướng, nhiều nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, bất cập trên là do tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường, vượt dự báo; nước ta bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch COVID-19, cần thời gian tích lũy để phục hồi.

Công tác phân tích, dự báo, xây dựng, triển khai chính sách, giải pháp ứng phó với biến động tình hình của một số cơ quan chức năng còn bị động, chưa kịp thời.

“Một bộ phận cán bộ, công chức năng lực còn yếu, còn hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm người đứng đầu ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương”, Thủ tướng báo cáo rõ trước Quốc hội.

Dự kiến tăng trưởng GDP 2023 khoảng 6,5%; CPI tăng 4,5%

Với năm 2023, dự báo tình hình thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, Thủ tướng cho biết, Chính phủ dự kiến các chủ tiêu chủ yếu, trong đó tăng trưởng GDP của năm 2023 khoảng 6,5%; CPI tăng khoảng 4,5%...

Để đạt được điều này, Chính phủ đưa ra 12 nhiệm vụ, giải pháp. Trong đó, nhiệm vụ đầu tiên được Thủ tướng nhấn mạnh là tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Trong đó, ông lưu ý việc thiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn; điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp; bảo đảm cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tập trung giữ vững ổn định thị trường tài chính, tiền tệ.

Bên cạnh hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, Thủ tướng nêu rõ cần đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường kỷ luật, kỷ cương.

“Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu, phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kiểm soát quyền lực”, theo Thủ tướng.

Nhiệm vụ, giải pháp nữa là đẩy nhanh tiến độ một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm quốc gia, có tính liên vùng, hạ tầng đô thị lớn, các dự án đường sắt đô thị, hạ tầng văn hóa, xã hội.

“Trong năm 2023, phấn đấu hoàn thành, đưa vào sử dụng một số đoạn cao tốc đã có chủ trương đầu tư; một số dự án đường sắt đô thị; nâng cấp mở rộng, khai thác lưỡng dụng một số sân bay”, Thủ tướng nhấn mạnh

Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2022 ước thực hiện

TT

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm 2022

Đánh giá

Mục tiêu

Ước thực hiện

1

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)

%

6 - 6,5

8

Vượt

2

GDP bình quân đầu người

USD

3.900

Khoảng 4.075

Vượt

3

Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP

%

25,5 - 25,8

25,7 - 25,8

Đạt

4

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân

%

4

4

Đạt

5

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội

%

5,5

3,8 - 4,3

Không đạt

6

Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội

%

27,5

27,1

Vượt

7

Tỷ lệ lao động qua đào tạo

%

67

67

Đạt

- Trong đó: Tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ

27 - 27,5

27

8

Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị

%

Dưới 4

Dưới 4

Đạt

9

Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều)

Điểm %

1 - 1,5

1

Đạt

10

Số bác sĩ trên 10.000 dân

Bác sĩ

9,4

10

Vượt

11

Số giường bệnh trên 10.000 dân

Giường

29,5

30,5

Vượt

12

Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế

%

92

92

Đạt

13

Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới

%

73

73

Đạt

14

Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn

%

89

94,71

Vượt

15

Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường

%

91

91

Đạ

Hương Giang