Sáng ngày 22/10, Quốc hội nghe tờ trình, thẩm tra về dự thảo Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước.

Phải ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi

Thừa ủy quyền của Thủ tướng, trình bày Tờ trình, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho hay, tỷ trọng tổng nợ trên tổng thu nội địa đã giảm mạnh từ 12,2% năm 2014, đến cuối tháng 8 năm 2019 giảm xuống ở mức 6,9%.

Song nợ đọng thuế vẫn cao. Tổng số tiền nợ thuế tính đến ngày 31/8/2019 là 88.253 tỷ đồng, tăng 8,2% so với thời điểm 31/12/2018, trong đó tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách là 42.990 tỷ đồng, chiếm 48,7% tổng số tiền nợ thuế.

“Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất kinh doanh bị rủi ro, làm ăn thua lỗ, phải giải thể, phá sản không có khả năng nộp ngân sách Nhà nước hoặc có trường hợp bỏ địa chỉ kinh doanh, có chủ doanh nghiệp bị chết, mất tích nên không có khả năng nộp thuế cho ngân sách Nhà nước”, ông Dũng cho biết.

Đi cùng với tiền nợ thuế là tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp. Theo tính toán của cơ quan quản lý thuế, tính đến ngày 31/8/2019 số tiền này là 15.779 tỷ đồng, song thực tế không có khả năng thu hồi.

Như vậy, tổng số tiền nợ thuế (bao gồm cả tiền phạt, tiền chậm nộp) không có khả năng nộp vào ngân sách Nhà nước lên đến 58.769 tỷ đồng.

Bộ trưởng Bộ Tài chính cho hay, đây là trường hợp phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực, chưa được quy định tại luật này. Vì vậy, Chính phủ thấy cần thiết phải báo cáo Quốc hội cho cơ chế xử lý nợ tồn đọng trước ngày 1/7/2020.

“Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách”, Bộ trưởng nhấn mạnh và cho rằng, nguyên tắc xử lý nợ phải bảo đảm đúng quy định pháp luật, công khai, minh bạch, ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi, cố tình chây ỳ, nợ thuế…

Chính phủ đề nghị được khoanh, không hồi tố với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1/7/2020 và xoá số nợ thuế gần 16.400 tỷ đồng tiền phạt, tiền chậm nộp.

Không xóa nợ tiền phạt cho doanh nghiệp vi phạm luật

Uỷ ban Tài chính Ngân sách cơ bản nhất trí sự cần thiết ban hành nghị quyết như Tờ trình của Chính phủ.

Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính Ngân sách Nguyễn Đức Hải

Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra rà soát việc xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với đối tượng: “Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề”.

Theo ông Nguyễn Đức Hải, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính Ngân sách, doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bao gồm: Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký là giả mạo; do những người bị cấm thành lập; ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế; không gửi báo cáo theo quy định…

“Đề nghị không xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng không tuân thủ theo quy định của pháp luật”, ông Hải nêu rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra.

Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng đề nghị bổ sung nội dung quy định xác nhận về thời điểm xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; quy định cụ thể về thời điểm xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng còn nợ mà chưa được nhà nước thanh toán, phát sinh trước ngày 01/01/2011.

Cũng theo ông Hải, đa số ý kiến trong Uỷ ban Tài chính Ngân sách nhất trí dự thảo quy định “nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020 và được thực hiện trong thời hạn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành”.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, không quy định Nghị quyết được thực hiện trong thời hạn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành. Để giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thu nộp ngân sách Nhà nước thì đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ tổ chức thực hiện Nghị quyết này trong 3 năm.

Đối tượng được xử lý nợ là người nộp thuế có tiền nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2020 mà không có khả năng nộp ngân sách Nhà nước bao gồm:

1. Người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự;

2. Người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể;

3. Người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản;

4. Người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế đã phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người nộp thuế có trụ sở hoặc địa chỉ liên lạc để kiểm tra, xác minh thông tin người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế;

5. Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề;

6. Người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ;

7. Người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán.


Hương Giang