Những ngày cuối năm 2018, trong không khí tôn nghiêm, ấm cúng, hậu thế lại tất bật chuẩn bị soạn sửa lễ nghi dâng các vua trong 3 ngày Tết một cách chu đáo, trách nhiệm với tất cả tình cảm, lòng thành kính tri ân...

Cúng vua thời Lê qua tư liệu lịch sử

Trở về Lam Kinh những ngày cuối năm, sự tôn nghiêm, linh thiêng như bao trùm cả một không gian rộng lớn. Lắng đọng trong thẳm sâu tâm khảm của những người con xứ Thanh cùng triệu triệu người dân Việt Nam, Lam Kinh mãi mãi là kinh đô kháng chiến một thời, nơi Lê Lợi dựng nên một triều đại thịnh trị, kéo dài vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Theo những dòng tư liệu ít ỏi, hiếm hoi (Phòng Tư liệu khoa học lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1966) ghi lại nghi lễ cúng Tết thời Lê do tác giả Lê Thành Hữu (nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng họ Lê Thanh Hóa) dịch còn lưu giữ: “Sáng mùng 1 theo lệnh vua, các công thần, quan văn, quan võ vào cung làm lễ. Trước đó ngày 30, tại Điện Kính thiên đã bày biện, trang hoàng, cắm cờ tán vàng 2 bên vua ngồi, chuẩn bị đại nhạc… theo nghi thức. Khoảng 5h sáng ngày mùng 1, đoàn rước bắt đầu khởi hành, đoàn nhạc đi trước, đội nghi vệ cầm tán vàng che, khiêng kiệu đến để rước vua đi. Khi đoàn rước đến Điện kính thiên (chỗ bàn thờ cúng Tết), các quan văn võ đứng ở hai bên, nhạc tấu lên, Hoàng Thượng làm lễ cúng bái tổ tiên xong, các quan dâng lễ kính chúc sức khỏe Hoàng Thượng.

Đồ cúng ngày Tết, đền Thái Miếu (thờ Vua) gồm: 375 bát gạo nếp, 45 bát gạo tẻ, dầu, mật, mắm muối... Trong 3 ngày Tết, mỗi ngày dâng 20 mâm để cúng. Điện Chí Kính (chỗ Vua thiết triều) gồm: 240 bát gạo nếp, 36 bát gạo tẻ… các cung miếu khác ở trong triều mỗi ngày phải chuẩn bị 65 mâm để cúng".

Trong bảy thập niên đầu của triều Lê (từ 1433 - 1505), các vua nhà Lê trị vì đất nước, cũng là quãng thời gian Lam Kinh hưng thịnh nhất, các vua và triều thần về Lam Kinh tổng 15 lần bái yết sơn lăng. Cũng trong những dòng tư liệu quý hiếm mà phóng viên sưu tầm có được, trong "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi lại những sự kiện rất gắn gọn. Chuyến về Lam Kinh năm 1456 của vua Lê Nhân Tông được ghi lại: “Vua và các đại thần thắp hương ở mộ vua Lê Thái Tổ cùng lăng mộ các vua và hoàng hậu. Đại tế diễn ra trong khu Chính điện và các tòa thái miếu. Cắt cử mỗi đại thần phụ trách chuẩn bị vật phẩm và nghi thức ở từng miếu điện. Biểu diễn hai điệu múa (Bình Ngô phá trận và Chư Hầu lai triều). Mỗi dịp vua nhà Lê về Lam Kinh là dịp dân chúng tổ chức hội hè tưng bừng để đón rước…”.

Là người có nhiều năm nghiên cứu về phong tục, tập quán thời nhà Lê, nhất là tục thờ cúng, ông Lê Thành Hữu, chia sẻ: “Những tư liệu về thờ cúng ngày Tết của các vị vua nhà Lê vô cùng ít ỏi. Tuy nhiên, những tư liệu đó giúp chúng ta hình dung nghi lễ tôn nghiêm của các vua nhà Lê đối với tiên tổ. Di tích Lam Kinh với tổng thể rất nhiều công trình mang trong mình nhiều giá trị vô giá, trải qua thời gian cùng với sự hưng thịnh của đất nước và địa vị vương triều Lê, di tích cũng trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi, bằng tấm lòng tri ân với những người có công với dân, với nước, di tích đang được đầu tư để tái hiện lại quy mô kinh đô xưa, gắn liền với việc bảo tồn và phục hồi hệ thống cảnh quan và bảo vệ môi trường tự nhiên tôn thêm giá trị của di tích.

Những ngày đầu năm mới, dân chúng từ muôn nơi về thắp hương tưởng nhớ những vị vua anh minh, những khai quốc công thần có công khai sơn lập quốc. Thờ cúng các vua và hoàng hậu ngoài là trách nhiệm còn là sự tri ân, nhớ về nguồn cội. Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp từ ngàn đời của người Việt”, ông Hữu cho biết thêm.

Người dân đến thắp hương mộ vua Lê Thái Tổ. Ảnh: VT

 

Cúng Tết vua thời nay ở Khu Di tích Lam Kinh

Hòa chung không khí chuẩn bị đón Tết, ngay từ những ngày đầu tháng Chạp, tại Khu Di tích lịch sử Quốc gia Lam Kinh, Ban Quản lý Di tích đã chuẩn bị chi tiết phương án để tổ chức thực hiện lễ đón Tết cho các vua tại khu trung tâm miếu điện Lam Kinh. Tổ chức thực hiện dọn dẹp sạch sẽ cảnh quan môi trường toàn bộ khu di tích, từ đường đi lối lại đến cảnh quan trong khuôn viên, bàn thờ cúng, trồng hoa, cây cảnh, chủ yếu lựa chọn hoa cúc và một số hoa có màu vàng để trồng.

Bên cạnh đó, treo cờ hội, cờ Tổ quốc, cờ phướn, băng zôn làm cho toàn bộ Khu Di tích nổi bật cảnh sắc Xuân. Việc sắm soạn những dụng cụ thờ cúng trên bàn thờ cũng được đặc biệt quan tâm như: Mâm, bát đĩa, chén, nậm rượu, đèn nến, khăn phủ, vải che khám… Đồ lễ được chọn lựa chọn là những sản vật đặc biệt của xứ Thanh.

Theo các cán bộ ở Khu Di tích Lam Kinh, vào khoảng tầm 27/12 âm, bắt đầu việc bày trí, xắp xếp các đồ thờ cúng theo nghi lễ. Ngoài các loại hoa có mầu vàng như hoa cúc, hoa lan, hoa ly… được bày trước các hương án thờ và toàn bộ phía ngoài như: Từ Ngọ Môn, đền Sân Rồng, chính điện. Ở các lăng mộ vua chọn hoa huệ để dâng lễ. Ngày Tết, nơi thờ cúng các vua không thể thiếu cành đào. Các cán bộ di tích về tận vùng đào nổi tiếng Xuân Du, huyện Như Thanh để chọn từng cành. Tất cả các loại hoa và đào phải chọn lựa kỹ những cây thân to, khỏe vừa có hoa, có nụ và mầm lộc.

Soạn lễ ngày Tết dâng lên vua bao giờ cũng phải đủ 3 lễ, lựa chọn rất cầu kỳ: Mâm mặn, mâm ngũ quả, mâm cổ ngọt còn có cả mâm bánh chưng, bánh lá. Lễ mặn gồm có xôi và lợn quay cả con. Xôi được đồ từ gạo nếp nương, nếp cái hoa vàng, hạt gạo trong đều khi chín các hạt xôi đều bóng, mùi thơm lừng. Lợn quay chín bằng than hồng, thường được chọn là giống lợn nuôi tự nhiên trên các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa, trọng lượng khoảng hơn 10kg, khi chín lợn không bị nứt, không cháy, thơm ngậy. Gà được lựa chọn những giống gà ngon quanh khu vực Lam Kinh. Cùng với đó là các loại rượu nổi tiếng tại Thanh Hóa như rượu nếp nương, rượu Chi Nê Hậu Lộc được dâng lên các bàn thờ.

Đặc biệt, năm nào cũng vậy cứ mỗi dịp gần Tết, cán bộ Ban Quản lý di tích lại quây quần tự gói và nấu bánh chưng, 1 tập quán, văn hóa trong các gia đình Việt luôn được các cán bộ di tích giữ gìn thể hiện tình cảm chân thành đối với các vị vua triều hậu Lê.

Khu Di tích Lam Kinh Thanh Hóa. Ảnh: VT

 

Mâm ngũ quả gồm 5 loại quả đủ 5 loại mầu theo ngũ hành (xanh, đỏ, vàng, đen, trắng). Các loại quả được lựa chọn ở những vùng có sản phẩm đặc sản nổi tiếng để làm ngũ quả như bưởi Luận Văn (bưởi tiến vua ngày xưa). Chuối tiêu phải là những buồng chuối đã già, chọn những buồng ở giữa nải có những quả to đẹp được trồng ở những vùng đồi núi. Quả phật thủ, loại quả này được trồng chủ yếu trên Ngọc Lặc, có mầu vàng chanh, da bóng đẹp, các ngón tay của phật thủ đều và đủ 9 ngón… Mâm ngọt không thể thiếu bánh gai tứ trụ, chè lam Phủ Quảng và vàng hương, cau trầu dâng lên các bàn thờ trong các tòa miếu.

Ông Nguyễn Đức Long, 79 tuổi, xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, là người hơn 20 năm phục vụ hương khói tại Lam Kinh cho biết: “Sau khi các đồ lễ được chuẩn bị xong, chiều 30 Tết, chúng tôi ra từng mộ phần thắp hương mời các vua về ănTết. Mâm cơm cúng chiều 30 Tết gồm lợn, xôi, gà, bánh chưng… được các thành viên trong Ban kính cẩn đặt lên bàn thờ, kính cáo với các vua năm cũ sắp qua. Đêm 30 cúng giao thừa, thời điểm chuyển tiếp năm cũ sang năm mới, cầu mong các vua phù hộ độ trì cho quốc thái dân an. Sau giao thừa người dân trong vùng tấp nập kéo dâng hương cho các vua, cầu khấn cho một năm mới sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Tiếp đến trong 3 ngày Tết, mỗi khi cúng đồ lễ cũ trên các bàn thờ được hạ xuống và thay bằng đồ mới".

Là người trực tiếp chăm lo, sửa lễ Tết cúng vua gần 10 năm, ông Trịnh Đình Dương, nguyên Trưởng ban Quản lý Di tích lịch sử Lam Kinh là người khá am hiểu về những quy củ, luật định thờ cúng vua trong 3 ngày Tết. Theo ông, việc lễ Vua, sắm sanh đồ lễ cũng quan trọng nhưng điều quan trọng hơn vẫn là ở cái tâm của hậu thế. Sự thành tâm của người biện lễ gắn liền với những ước vọng lớn lao cho một năm mới: “Thường sau khi biện lễ, lên hương, con cháu dòng tộc họ Lê nói riêng và con dân cả nước nói chung đều thành tâm cầu mong các bậc tiên đế độ trì cho một năm mới mưa thuận, gió hòa, quốc thái, dân an, trên dưới đoàn kết một lòng xây dựng nong sông, đất nước ngày càng giàu mạnh!”, ông Dương cho biết.

Lam Sơn - Lam Kinh là quê hương của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi khởi nguồn và căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại, đồng thời còn là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Hậu Lê và Hoàng hậu. Tồn tại trong không gian văn hoá Việt Mường, mang dấu ấn đậm nhất là hệ thống đền, nhà thờ họ, thờ cúng những vị tướng có công lập nên vương triều Lê. Chính hệ thống di tích đền, nhà thờ làm cho ý nghĩa lịch sử, văn hoá của khu Lam Kinh càng sâu sắc, có sức lan toả rộng và vững bền, trở thành Di tích Quốc gia đặc biệt.

Lam Kinh là nơi trở về với nguồn cội dân tộc, trái tim của Quốc gia Đại Việt trong cuộc kháng chiến bình Ngô gần sáu thế kỷ trước. Đến đây du khách được đi thăm những dấu tích của kinh đô xưa gắn liền với lịch sử hào hùng của cha ông trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược đầu thế kỷ XV và một thời kỳ vàng son của kinh đô thứ hai triều đại Hậu Lê. Về thăm Lam Kinh du khách sẽ được dâng hương tại Thái miếu nơi thờ các vua và hoàng hậu triều Lê, được thăm và dâng hương tại các lăng mộ trên mảnh đất đế đô lịch sử.


VT