Khảo sát cũng đưa ra các khuyến nghị cho ban quản lý và các DN trong KCNC về cách thức nâng cao văn hóa liêm chính trong kinh doanh, trong đó nhấn mạnh rằng kinh nghiệm của các KCNC có thể được nhân rộng trên khắp Việt Nam.

Nhận thức chung về các rủi ro trong kinh doanh

Chỉ 1/3 số DN tham gia phỏng vấn lựa chọn rủi ro tham nhũng là một trong ba rủi ro lớn nhất. 

Trong khi đó, rủi ro pháp lý, kinh tế vĩ mô và hợp đồng đứng hàng đầu trong danh sách các rủi ro được nhiều DN lựa chọn. 2/3 số DN còn lại đang hoạt động trong ba KCNC quốc gia cho rằng, tham nhũng là một vấn đề quan trọng, nhưng không nằm trong ba mối quan ngại hàng đầu của họ. 

Các thủ tục dịch vụ công của Nhà nước được cho là tạo cơ hội để cán bộ Nhà nước lạm dụng quyền lực của mình. 

50% số DN tham gia khảo sát đồng ý với nhận định rằng: "Các công chức Nhà nước thường sử dụng việc giám sát tuân thủ pháp luật ở địa phương để đòi hỏi chi phí không chính thức từ các DN như DN của tôi". Điều thú vị là các khoản phí không chính thức này không phải lúc nào cũng hữu ích. Chỉ 42% số người được phỏng vấn khi trả lời câu hỏi tiếp theo cho rằng công ty sẽ được cung cấp dịch vụ công như mong muốn nếu chấp nhận chi trả khoản chi phí này. Khi được hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu công ty không trả phí không chính thức, 20% số người tham gia phỏng vấn nghĩ rằng họ sẽ không được cung cấp dịch vụ như mong muốn. Ngoài ra, 29% số người được phỏng vấn cho biết "đôi khi, dịch vụ được cung cấp như công ty mong muốn" cho dù họ có hối lộ hay không. 

Chi phí hối lộ không phải là quan ngại lớn của các DN tham gia phỏng vấn. 

Đa số các DN không nắm rõ tỷ lệ của chi phí không chính thức so với tổng doanh thu của công ty. Một phần tư số người tham gia phỏng vấn ước tính con số này khoảng dưới 1%; một số nhấn mạnh rằng con số thấp này không có nghĩa rằng số tiền bỏ ra là không đáng kể, như trong trường hợp của các công ty đa quốc gia.

Mua sắm

Hối lộ vẫn xảy ra phổ biến trong hoạt động mua sắm của Nhà nước. 

3/4 DN được phỏng vấn có tham gia hoạt động mua sắm của Nhà nước, thừa nhận có hối lộ để giành được hợp đồng. 

Hoạt động hối lộ trong lĩnh vực mua sắm của khu vực tư nhân không nhiều như trong khu vực công. Tuy nhiên, hiện tượng đưa quà biếu hoặc chiêu đãi vẫn diễn ra phổ biến.“Công ty cng tôi thiết lập chỉ tiêu cho phòng mua sắm từ nhà cung ứng”.

Những người tham gia phỏng vấn tin rằng các khoản phí không chính thức không phổ biến trong hoạt động mua sắm tư nhân do cả bên mua và bên bán đều quản lý chặt chẽ ngân sách của mình. 

Các đơn vị cung ứng có xu hướng cạnh tranh bằng giá chứ không phải bằng cách tặng quà hay chiêu đãi. 

Về phía người mua, một số công ty cho biết khi được bên cung ứng đề nghị lại quả như một hình thức khuyến mại, họ yêu cầu bên cung ứng chuyển số tiền lại quả đó thành khoản chiết khấu chính thức. Giám đốc các công ty có quy mô nhỏ hơn thì áp dụng quy trình mua sắm đơn giản và tin rằng họ có thể ngăn chặn nhân viên của mình nhận hối lộ bằng cách trực tiếp tham gia vào quá trình lựa chọn nhà cung ứng và giám sát quá trình mua sắm.

Khi trả lời câu hỏi về kinh nghiệm xử lý hành vi hối lộ trong hoạt động mua sắm, các công ty tham gia phỏng vấn đều cho rằng việc xây dựng được quy trình mua sắm minh bạch là rất cần thiết. Ngoài ra, DN cần thực hiện hoạt động truyền thông cũng như đào tạo nhân viên và nhà cung cấp để nâng cao nhận thức về chính sách cũng như các biện pháp trừng phạt của công ty. Tuân thủ nghiêm túc chính sách của công ty cũng có vai trò quan trọng không kém; ví dụ nhân viên phải hoàn trả lại người tặng bất kỳ món quà nào có giá trị cao hơn mức nêu trong chính sách của công ty. Tuy nhiên, mức độ chi tiết của chính sách và quy trình mua sắm đang áp dụng ở các công ty nhỏ hơn vẫn chưa rõ ràng.

Xuất hóa đơn cao hơn hay thấp hơn giá trị thực không phải là vấn đề báo động đối với cả công ty trong nước và ngoài nước. 

Gần 90% số người tham gia phỏng vấn tin rằng công ty của mình không xuất hóa đơn cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực mặc dù có ba công ty trong đó từng được yêu cầu xuất hóa đơn hàng hóa/dịch vụ có giá trị thấp hoặc cao hơn mức đã thống nhất với bên mua. 

Xung đột lợi ích

Việc quản lý xung đột lợi ích nhìn chung chưa được chú trọng phát triển tại các DN được phỏng vấn, kể cả DN nước ngoài nếu so với các biện pháp tuân thủ khác.

Kết quả khảo sát cho thấy các công ty có hiểu biết nhất định về khái niệm xung đột lợi ích, nhưng vẫn chưa thiết lập quy trình quản lý bằng văn bản.

Tình trạng các DN chưa xây dựng các chính sách toàn diện về quản lý xung đột lợi ích cho thấy hầu hết các đơn vị tham gia phỏng vấn chưa nắm bắt được các thực hành tốt về quản trị DN và tin rằng mình có năng lực quản lý rủi ro trong hoạt động thường ngày. 

Nhận thức của các công ty về mối tương quan giữa xung đột lợi ích và chi phí hoạt động kinh doanh không thống nhất.

Gần một nửa số công ty tham gia phỏng vấn (45%) cho rằng xung đột lợi ích sẽ làm tăng giá mua vào của hàng hóa/dịch vụ. Hơn 1/3 số công ty (chiếm 39%) không đồng tình với suy nghĩ trên. Một số người giải thích rằng việc có quan hệ cá nhân/họ hàng với đơn vị cung ứng giúp công ty nhận được sản phẩm có chất lượng tốt hơn hoặc có điều khoản thanh toán thuận lợi hơn. 

Các DN cần cải thiện thực tiễn công bố thông tin.

Chính sách quản lý xung đột lợi ích được đăng trên các trang web của 39% số DN tham gia phỏng vấn. Tuy nhiên, trừ một số ít DN có quy mô rất lớn, hầu hết các công ty này chỉ công bố chính sách quản lý xung đột lợi ích trên mạng nội bộ.

Thủ tục dịch vụ công

Các DN hoạt động trong KCNC trải nghiệm tình trạng tham nhũng trong thủ tục dịch vụ công của cơ quan Nhà nước thấp hơn so với các DN hoạt động bên ngoài.

39% số người tham gia phỏng vấn cho biết từng được yêu cầu chi tiền lót tay hoặc cung cấp các dạng lợi ích phi chính thức khác cho cán bộ, công chức để được làm nhanh thủ tục dịch vụ công. 

Các cuộc phỏng vấn với các ban quản lý ở 3 KCNC cho thấy cam kết rõ ràng của lãnh đạo các ban quản lý đối với việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi và minh bạch trong KCNC.

Đối với khối DN hay còn được coi là bên cung của hối lộ, tư duy "hối lộ là một cách để thực hiện kinh doanh" tiếp tục tồn tại trong nhiều công ty.

Điều đáng ngạc nhiên là trong số 48% DN không bị yêu cầu thì vẫn có một số công ty trong nước chủ động chi các khoản phí bôi trơn nhằm giảm bớt thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, tránh bị yêu cầu bổ sung tài liệu hoặc để giảm tiền thuế/thuế quan.

Tình trạng cán bộ Nhà nước đề nghị DN thuê bên thứ ba do họ chỉ định để hỗ trợ thực hiện các dịch vụ công xảy ra không phổ biến.

Việc cán bộ Nhà nước đề nghị DN tuyển dụng người nhà của họ vào làm việc không thường xuyên xảy ra.

Trả lời về chi phí hối lộ, 1/3 số DN cho rằng các khoản chi không chính thức chiếm dưới 1% tổng doanh thu. Mặc dù giá trị của các khoản chi không chính thức thay đổi theo tổng doanh thu của DN, có thể thấy rằng các khoản chi phí bôi trơn là hình thức hối lộ chủ yếu.

Tặng quà và chiêu đãi cán bộ Nhà nước

Gần một nửa số DN tham gia phỏng vấn (45%) cho rằng, cán bộ Nhà nước kỳ vọng các đơn vị này sẽ tặng quà hoặc dịch vụ giải trí trong một số dịp như Tết hoặc Trung thu. 

Nhận định này chủ yếu do các công ty trong nước đưa ra, họ coi tặng quà dịp Tết là một phần văn hóa Việt chứ không nhất thiết là hành vi tham nhũng do quà tặng thường có giá trị thấp (dưới 1 triệu đồng). Các DN này cũng cho biết họ tình nguyện tặng quà hoặc chiêu đãi cán bộ Nhà nước.

Tương tự, các DN cũng tự nguyện tặng quà cho đối tác khi được trao hợp đồng để giữ mối quan hệ hợp tác tốt. 

Nhất quán với số liệu trên, 68% số DN tham gia phỏng vấn không cho rằng việc cán bộ Nhà nước gợi ý tặng quà hay dịch vụ giải trí là việc gì đó nghiêm trọng. Khi được hỏi liệu DN có bị từ chối nhận dịch vụ Nhà nước vì không đáp ứng kỳ vọng của cán bộ Nhà nước về việc tặng quà và dịch vụ giải trí không, 77% số DN trả lời là không.

Trả lời câu hỏi về kinh nghiệm xử lý của công ty khi bị đề nghị tặng quà hoặc chiêu đãi, các DN nước ngoài nói rằng họ có chính sách rõ ràng về vấn đề này. Ngược lại, các DN trong nước thường chấp nhận các đề nghị này, bao gồm cả yêu cầu về chi phí bôi trơn để tạo thuận lợi cho công việc. Các DN cho rằng đây là hành vi phổ biến ở Việt Nam nếu yêu cầu được đưa ra ở mức hợp lý.

Việc phải trang trải chi phí du lịch cho cán bộ Nhà nước (và người thân của họ) không phải là vấn đề với DN.

80% số DN tham gia phỏng vấn không cho rằng cán bộ Nhà nước kỳ vọng họ đài thọ chi phí tham gia các sự kiện của DN ở nước ngoài. Ngay cả khi được gợi ý như vậy, nhiều DN cũng không cho rằng gợi ý này vì mục đích cá nhân mà để phục vụ công việc.

Quan điểm của các DN thuê đất trong khu công nghiệp về chống hối lộ

Hoạt động xây dựng chính sách và chương trình chống hối lộ chưa phổ biến trong các DN nhỏ và vừa trong nước và nước ngoài.

Đánh giá rủi ro tham nhũng được thực hiện ở 1/3 số DN tham gia phỏng vấn, hầu hết trong số này là các DN nước ngoài.

Các đánh giá thẩm tra được thực hiện thường xuyên nhưng không phải lúc nào cũng nhằm mục đích chống hối lộ.

4/5 số công ty tham gia phỏng vấn thực hiện toàn bộ hoặc một phần của hoạt động đánh giá thẩm tra cơ bản như thẩm tra quá trình kinh doanh, hiện trạng tài chính và sự tuân thủ quy định pháp luật của đơn vị cung ứng. Tuy nhiên, các DN chưa quan tâm đến việc đánh giá tham nhũng mặc dù đây là một nội dung quan trọng của hoạt động thẩm tra. Mặt khác, 71% DN biết mình bị đối tác kinh doanh thực hiện thẩm tra.

Điều đáng khích lệ là một số chính sách nhất định về chống hối lộ đã được xây dựng, tuy nhiên chủ yếu ở các DN nước ngoài.

Gần 2/3 số DN đã ban hành chính sách chống hối lộ và 1/5 số DN đã xây dựng các chính sách này ở mức độ nhất định. Hơn một nửa số DN tham gia phỏng vấn nghiêm cấm các khoản chi phí bôi trơn trong chính sách của mình, gần một nửa số DN (48%) đã xây dựng quy định về quà tặng và chiêu đãi và một số lượng công ty tương tự có quy định về xung đột lợi ích. Chỉ 55% số DN được phỏng vấn đã thiết kế chương trình tập huấn cho giám đốc, nhân viên và đối tác.

Chỉ 1/3 số DN tham gia phỏng vấn có một chương trình chống hối lộ toàn diện.

Việc giám sát chương trình chống hối lộ được thể hiện trong nhiều quy trình và hoạt động nội bộ nhưng với mức độ khác nhau.

Trong số các DN đã xây dựng chính sách hay chương trình chống hối lộ, 61% cho biết ban giám đốc đã thể hiện cam kết chủ động và rõ ràng về việc thực hiện các quy định này. 58% số công ty có giám đốc điều hành dựa trên thẩm quyền được giao chịu trách nhiệm đảm bảo việc triển khai của chương trình. Các công ty trong nước không cho biết rõ các cam kết này được thể hiện như thế nào trong hoạt động hàng ngày của DN.

Truyền đạt thông tin cho nhân viên và đối tác kinh doanh được coi là nguyên tắc chính của chương trình chống hối lộ hiệu quả.

Gần 2/3 số DN được phỏng vấn chú trọng tuyên truyền chống hối lộ cho nhân viên của mình. Chỉ 2/5 số DN quy định các đơn vị cung ứng, đại lý và các đơn vị trung gian khác cam kết trên hợp đồng về việc tuân thủ các chính sách và quy trình chống hối lộ do DN đưa ra, đồng thời hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho họ.

Trừ một số ít công ty có quy mô rất lớn, các DN chưa thiết lập các kênh tố cáo ẩn danh để nhận tin báo về hành vi tham nhũng.

Công khai chính sách và chương trình chống hối lộ là một cách tốt để thể hiện cam kết chống hối lộ của công ty với cán bộ công nhân viên cũng như các bên liên quan. Tuy nhiên, rất ít DN được phỏng vấn thực hiện điều này. 

Chỉ 39% số DN tham gia phỏng vấn công bố chính sách hoặc chương trình chống hối lộ trên trang web công khai. Thay vào đó, một số công ty công bố chính sách và chương trình chống hối lộ và các chính sách có liên quan khác (như chính sách về quà tặng và dịch vụ giải trí, xung đột lợi ích) trên trang web nội bộ.

4 khuyến nghị quan trọng

Từ kết quả khảo sát, nhóm tác giả đã đề xuất những nỗ lực phối hợp của nhiều bên liên quan để tiếp tục xây dựng văn hóa liêm chính.

Thứ nhất, ban quản lý các KCNC cần tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính và tăng cường các sáng kiến thúc đẩy tính liêm chính. 

Ban quản lý có thể cân nhắc thực hiện dần các tiêu chuẩn và quy trình quốc tế về phòng, chống tham nhũng và thu hút sự tham gia của các DN trong tiến trình này.

Thứ hai, các DN cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng và triển khai các hệ thống tuân thủ và kiểm soát nội bộ. 

Một chương trình tuân thủ tốt bao gồm các chính sách và trình tự thủ tục rõ ràng sẽ giúp xây dựng uy tín và giảm chi phí kinh doanh. Các công ty lớn có thể đóng góp nhiều hơn nữa, không chỉ chống hối lộ trong nội bộ DN mà còn thúc đẩy giải quyết các rủi ro hối lộ trong chuỗi cung ứng của họ. DN vừa và nhỏ cũng có lợi ích tương tự chỉ cần hệ thống tuân thủ và kiểm soát nội bộ được xây dựng tương xứng và gắn kết với các hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, các cơ quan quản lý Nhà nước khác đóng vai trò chủ chốt trong việc giảm thiểu hối lộ. 

Các khuyến nghị nhằm hướng đến thay đổi tư duy, thái độ của cán bộ công chức Nhà nước từ lạm dụng quyền lực Nhà nước sang phục vụ DN, chẳng hạn như xây dựng các quy trình cung cấp dịch vụ công minh bạch và rõ ràng hơn, qua đó phát triển và nhân rộng các nỗ lực thực hiện liêm chính kinh doanh. Ngoài ra, Chính phủ cần khuyến khích và hỗ trợ các sáng kiến liêm chính, ví dụ như tạo điều kiện phổ biến rộng rãi các thực hành tốt tại ba KCNC.

Thứ tư, các hiệp hội DN và các tổ chức ngoài Nhà nước khác (tổ chức xã hội, các cơ quan nghiên cứu, truyền thông) cũng có vai trò trong việc thúc đẩy liêm chính kinh doanh thông qua việc tổ chức đào tạo về chống hối lộ để phổ biến các thực hành tốt và chia sẻ kinh nghiệm giữa các DN trong cùng lĩnh vực. 

Sự cập nhật thường xuyên của các công ty nước ngoài về xu hướng và quy định chống hối lộ trong khu vực cũng như toàn cầu đã góp phần nâng cao nhận thức của các DN trong nước về tầm quan trọng của cam kết chống hối lộ đối với việc duy trì hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh của họ.

Nguyễn T. K. Liên, Christian Levon và Nguyễn H. D. Linh
Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT)