Trung tâm Nghiên cứu Quản trị Xã hội (CENSOGOR) - đối tác của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) tại Việt Nam mới đây đã công bố Báo cáo “Phòng ngừa tham nhũng trong kinh doanh: Đánh giá dưới góc nhìn thực tiễn của doanh nghiệp (DN)”, qua đó khẳng định: Để tích cực, chủ động tham gia phòng, chống tham nhũng (PCTN), DN cần triển khai đồng bộ các biện pháp ở cả ba cấp độ: Trong nội bộ DN, với các đối tác kinh doanh và tham gia các hành động tập thể. 

Là một hoạt động của Dự án "Thúc đẩy ứng dụng các tiêu chuẩn quốc tế về liêm chính trong kinh doanh để cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam và tăng cường hội nhập quốc tế" do CENSOGOR phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thực hiện với sự hỗ trợ tài chính của Quỹ Thịnh vượng của Vương quốc Anh do Đại sứ quán Anh tại Hà Nội quản lý, nghiên cứu chỉ rõ: Tình trạng tham nhũng tại Việt Nam đang ngày càng phổ biến, đe doạ tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế và gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống xã hội.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã thể hiện rõ quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh thông qua các biện pháp như cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng. Tuy nhiên, các nỗ lực này chưa đạt hiệu quả cao do mới chỉ giới hạn trong lĩnh vực đăng ký thành lập DN, thủ tục đầu tư. 

Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2016 của TI dựa trên cảm nhận của doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công cho thấy, Việt Nam (được 33/100 điểm, đứng thứ 113/176 trên bảng xếp hạng toàn cầu) vẫn đang nằm trong nhóm các nước mà tham nhũng được cho là nghiêm trọng. Ngoài ra, theo Phong vũ biểu tham nhũng toàn cầu (GCB) 2016 đánh giá quan điểm và trải nghiệm của người dân Việt Nam về tham nhũng, 38% người được hỏi cho rằng, lãnh đạo DN là một trong ba nhóm có mức độ tham nhũng cao nhất bên cạnh nhóm cán bộ thuế và cảnh sát (lần lượt là 48% và 57%).

DN được nhìn nhận đóng vai trò như "mắt xích kép”: Vừa là nạn nhân, vừa là tác nhân gây ra tham nhũng. Có đến 66% DN dân doanh trong nước đã phải chi trả các chi phí không chính thức và 59% DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phải trả chi phí không chính thức khi làm thủ tục hải quan. Đồng thời, 61,5% DN có hành vi biếu tiền và hầu như tất cả các DN đều có "lại quả” cho đối tác. 

Trong công tác PCTN, Chính phủ đang có cái nhìn tích cực hơn về vai trò của DN và khuyến khích DN áp dụng các biện pháp PCTN nội bộ cũng như phối hợp với cộng đồng DN và các cơ quan chức năng cùng hành động để đẩy mạnh hiệu quả công tác PCTN. Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam gần đây đã chỉ ra rằng, áp dụng các biện pháp PCTN trong kinh doanh giúp mang lại các lợi ích nhất định cho DN như tăng doanh thu, thu hút khách hàng, giảm chi phí vận hành và vốn, giảm thiểu rủi ro.

Tuy nhiên, một số lượng lớn các công ty, bao gồm cả các DN vừa và nhỏ, vẫn hoài nghi về kết quả thực sự của việc thực hiện các biện pháp này do thiếu bằng chứng thực tế về "chi phí và lợi ích" của việc áp dụng một chương trình PCTN cho DN đang hoạt động tại Việt Nam và thiếu các hướng dẫn thực hành để áp dụng hiệu quả những biện pháp được cho là khả thi.

Khảo sát thực địa do CENSOGOR tiến hành đã đưa ra một số kết quả và ví dụ về thực tiễn áp dụng biện pháp PCTN trong DN ở Việt Nam như sau:

Một số kết quả chính sách PCTN

Kết quả phỏng vấn cho thấy, 29 trong số 35 DN đã thể hiện cam kết PCTN trong bộ quy tắc ứng xử. Tuy nhiên, việc DN đưa cam kết lên trên sản phẩm hoặc công khai cam kết PCTN qua các chiến dịch truyền thông, quảng cáo còn chưa phổ biến.

Ở phạm vi nội bộ DN: Các DN được phỏng vấn đã và đang áp dụng một số chính sách PCTN. Trong đó, 26 DN có kênh tố cáo nội bộ như: Đường dây nóng "hot line”, email, trang web, hộp thư góp ý; 24 DN có chính sách quy định chống chi phí bôi trơn; 22 DN thực hiện đánh giá rủi ro tham nhũng thường niên; 22 DN có chính sách chống xung đột lợi ích; 19 DN có chính sách về quà tặng. Tuy nhiên, chỉ có 2 trong số 35 DN có quy định cụ thể về quyên góp từ thiện và tài trợ.

Về phổ biến chính sách PCTN: 27 trong số 35 DN cung cấp khóa đào tạo về áp dụng biện pháp PCTN thiết kế riêng cho cấp lãnh đạo, quản lý và nhân viên.

Về công tác rà soát, đánh giá hiệu quả các chính sách PCTN: 31 DN có thực hiện rà soát định kỳ nội bộ và 22 DN có rà soát chính sách PCTN thường kỳ. Tuy nhiên, việc rà soát, đánh giá sự phù hợp của chương trình phòng ngừa tham nhũng bởi Ủy ban Kiểm toán độc lập còn chưa phổ biến. Trong số 35 DN phỏng vấn, chỉ có 5 DN áp dụng rà soát, đánh giá chương trình phòng ngừa tham nhũng do Ủy ban Kiểm toán độc lập thực hiện và 9 DN có công khai hiệu quả chương trình phòng ngừa.

Cũng cần lưu ý rằng, không phải DN nào cũng áp dụng thành công các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Ví dụ, các DN cho rằng việc xóa bỏ hoàn toàn chi phí bôi trơn cho các thủ tục hành chính là chưa thực sự hiệu quả, khi các lỗ hổng trong quy định pháp luật vẫn tạo cơ hội để cán bộ, công chức gây phiền hà cho DN và đòi hối lộ. Kết quả phỏng vấn cho thấy, dù có đủ khả năng tự thực hiện các giao dịch xin cấp phép, thông quan, nhiều DN vẫn phải sử dụng dịch vụ của công ty trung gian để giảm bớt rủi ro pháp lý liên quan đến chi phí bôi trơn.

Ở phạm vi đối tác kinh doanh: 19 trong số 35 DN phổ biến chính sách tới đối tác kinh doanh và các bên liên quan khác như trung gian, khách hàng... Mặc dù các DN được hỏi coi trọng tính liêm chính của đối tác kinh doanh, phần lớn các DN chưa coi việc đào tạo, phổ biến chính sách PCTN cho đối tác kinh doanh là yêu cầu bắt buộc mà chủ yếu chỉ yêu cầu đối tác ký cam kết, còn việc triển khai, tuân thủ những cam kết này phụ thuộc vào sự tự giác, chủ động của DN đối tác và các bên liên quan khác. Việc thực hiện các khóa đào tạo cho đối tác kinh doanh và bên liên quan chỉ được 11 DN thực hiện.

Ở phạm vi môi trường kinh doanh: Kết quả phỏng vấn cho thấy, niềm tin của DN vào việc phát hiện và xử lý các DN tham nhũng trên thực tế còn hạn chế, chưa chứng tỏ được hiệu quả ở phạm vi rộng (trừ một số ít vụ án tham nhũng trọng điểm đã và đang được xử lý). Các DN được phỏng vấn đều cho rằng, rất cần tháo bỏ gánh nặng quy định pháp luật, xóa bỏ những lỗ hổng pháp lý, những quy định thiếu rõ ràng, hạn chế tình trạng DN dịch vụ làm trung gian, môi giới cho tham nhũng vặt.

Một số ví dụ về thực tiễn áp dụng biện pháp PCTN trong DN

Truyền thông và phổ biến về liêm chính và đạo đức kinh doanh: Một DN kinh doanh trong lĩnh vực sản phẩm điện tử tại TP Hồ Chí Minh chủ động chia sẻ với đối tác kinh doanh, các bạn sinh viên, người trẻ trong xã hội về giá trị cốt lõi của công ty trong đó nhấn mạnh về giá trị liêm chính, đạo đức kinh doanh, và trách nhiệm xã hội của DN. 

DN tin tưởng rằng, kinh doanh lành mạnh, liêm chính giúp xây dựng và bảo vệ danh tiếng và uy tín của họ.

Định kỳ đánh giá rủi ro tham nhũng: Chính sách quản lý rủi ro của DN A bao gồm khâu rà soát nhận diện rủi ro tham nhũng. Văn hóa nhận diện và phòng ngừa tham nhũng được toàn bộ nhân viên của DN nhận thức và thực hiện đều đặn định kỳ. Giám đốc DN luôn coi trọng khâu đánh giá rủi ro làm cơ sở cho việc phòng ngừa tham nhũng và luôn ủng hộ những sáng kiến, giải pháp giúp phát hiện và giảm thiểu rủi ro cho DN.

Giám đốc DN là người chỉ đạo việc rà soát rủi ro và giao nhiệm vụ cụ thể cho trưởng bộ phận quản lý rủi ro. Việc rà soát rủi ro được thực hiện ở các cấp độ rủi ro: Quốc gia, ngành và quy trình hoạt động kinh doanh. Ở cấp độ quy trình hoạt động, từng khâu trong quy trình được rà soát nhằm xác định những nguy cơ thiếu tuân thủ, xung đột lợi ích, câu kết, hối lộ… có thể xảy ra. Sau khi đã nhận diện được các nguy cơ, bộ phận quản lý rủi ro sẽ phân tích và làm việc với từng bộ phận liên quan để đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ hiện tại và nếu cần thiết, đề xuất tăng cường biện pháp kiểm soát và giảm thiểu rủi ro để đưa vào, cập nhật trong các chính sách, quy trình quản lý liên quan của DN. 

DN cho rằng, thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro tham nhũng để kinh doanh lành mạnh, liêm chính góp phần giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Xây dựng môi trường làm việc minh bạch, liêm chính: DN B hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao cho biết ưu tiên hàng đầu của DN là tạo môi trường lao động khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của nhân viên. DN B cho rằng, việc thực thi nhất quán chính sách liêm chính của DN giúp người lao động hiểu rõ thông điệp và mong đợi của lãnh đạo công ty về sự chính trực khi thực hiện nhiệm vụ, cảm thấy được động viên, khuyến khích làm việc, cạnh tranh lành mạnh với đồng nghiệp bằng năng lực và sức sáng tạo, được đối xử và đánh giá, thưởng, phạt công bằng. 

DN cho rằng, kinh doanh lành mạnh, liêm chính giúp tăng sự chủ động, sáng tạo và năng suất làm việc của nhân viên.

Áp dụng các biện pháp PCTN trong kinh doanh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đối tác quốc tế: DN C cung cấp dịch vụ cho nhiều khách khàng quốc tế và trong quá trình đàm phán thường xuyên trải qua quá trình đánh giá năng lực, biện pháp PCTN do khách hàng thực hiện trước khi ký hợp đồng. Khi DN C mua bán sáp nhập một chi nhánh ở một quốc gia phát triển có quy định pháp luật chặt chẽ về PCTN trong DN, họ đã phải đáp ứng các quy định về PCTN trong quá trình đàm phán, chuẩn bị và hoàn tất thủ tục mua chi nhánh tại nước ngoài. Các công ty đa quốc gia thường chịu sự điều chỉnh ngày càng chặt chẽ của pháp luật PCTN của các quốc gia phát triển, trên cơ sở đó họ yêu cầu các đối tác kinh doanh tại Việt Nam phải triển khai biện pháp/chính sách PCTN tương đồng với những biện pháp mà họ đang áp dụng. Nếu không đáp ứng được những yêu cầu về chính sách/biện pháp PCTN, các DN Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ bị từ chối hoặc chấm dứt quan hệ kinh doanh. 

DN cho rằng, kinh doanh lành mạnh, liêm chính giúp DN thâm nhập thị trường quốc tế.

Quản lý nguy cơ xung đột lợi ích: 22/35 DN có điều khoản về xung đột lợi ích trong hợp đồng lao động với nhân viên và triển khai khá hiệu quả quy định nhân viên phải định kỳ (hàng năm) kê khai với DN những nguy cơ tiềm tàng xung đột giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của DN.

Một số ít DN yêu cầu nhân viên phụ trách đấu thầu mua sắm phải công khai nguy cơ xung đột lợi ích trước khi giao nhiệm vụ tham gia dự án hoặc hợp đồng mua sắm có giá trị trên 100 triệu đồng. Một số DN đã ban hành cụ thể quy trình công khai và giám sát nguy cơ xung đột lợi ích; thủ tục thông báo bổ sung khi có xung đột lợi ích mới phát sinh; và mẫu khai báo nguy cơ xung đột lợi ích của người lao động. 

DN cho rằng, phòng ngừa và quản lý nguy cơ xung đột lợi ích giúp DN giảm thiệt hại và tăng hiệu quả kinh doanh.

Sử dụng kênh trợ giúp, tiếp nhận thông tin, tố cáo liên quan đến tham nhũng: 26/35 DN có kênh tố cáo nội bộ như: Đường dây nóng "hot line”, email, trang web, hộp thư góp ý, báo cáo trực tiếp giữa người tố cáo và lãnh đạo DN, một số DN tổ chức buổi tiếp xúc ngẫu nhiên hoặc định kỳ giữa lãnh đạo DN và người lao động (gặp mặt đối thoại hoặc ăn trưa giữa lãnh đạo DN và nhân viên) để thu nhận phản hồi từ người lao động. Các DN này cũng cho biết, việc thiết kế kênh tố cáo cần phù hợp với nhóm người lao động ở các cấp bậc, trình độ khác nhau trên cơ sở tìm hiểu và xác định được các nhóm lao động khác nhau có nhận thức, quan điểm và cách thức tố cáo khác nhau, như vậy mới khuyến khích người lao động tố cáo sai phạm.

DN cho rằng, các kênh trợ giúp, tiếp nhận thông tin, tố cáo liên quan đến tham nhũng giúp DN nhanh chóng phát hiện và giải quyết những vấn đề nghiêm trọng liên quan tới tham nhũng để giảm thiểu hậu quả, thiệt hại về tài chính, nhân lực và danh tiếng.

7 khuyến nghị 

Trên cơ sở phân tích các tiêu chuẩn quốc tế và dựa trên khuôn khổ luật pháp trong nước, cùng một số ví dụ được rút ra từ khảo sát thực địa, các kết quả chính của nghiên cứu đã đưa ra một số bằng chứng cho thấy các biện pháp PCTN trong kinh doanh có thể được áp dụng tại Việt Nam. Những bằng chứng đó cũng là động lực cho các DN khác nhận thức được tầm quan trọng và cách thức hành động PCTN để tăng cường hiệu quả kinh doanh hướng tới môi trường kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển bền vững của DN.

Để tích cực, chủ động tham gia PCTN, nhóm nghiên cứu cho rằng, DN cần triển khai đồng bộ các biện pháp ở cả ba cấp độ: Trong nội bộ DN, với các đối tác kinh doanh và tham gia các hành động tập thể. 

Dựa trên các kết quả chính của nghiên cứu, phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu, báo cáo của CENSOGOR tập trung đưa ra các khuyến nghị cụ thể sau đối với DN:

Thứ nhất, chủ động xây dựng và áp dụng các biện pháp PCTN đã được chuẩn hóa như: Bộ tiêu chuẩn ISO 37001, hoặc các nguyên tắc chống hối lộ trong kinh doanh.

Thứ hai, đánh giá hồ sơ liêm chính của người lao động trong quá trình tuyển dụng, kiểm tra, tham chiếu với nơi làm việc trước đó của người lao động.

Thứ ba, áp dụng và thực thi hiệu quả chính sách kê khai nguy cơ xung đột lợi ích và phòng chống xung đột lợi ích.  Điều này sẽ giúp DN nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm thiểu tham nhũng, lãng phí.

Thứ tư, phòng, chống hối lộ và “lại quả" trong công tác mua sắm đầu vào cho hoạt động kinh doanh của DN. Chính sách trao nhận quà tặng, chiêu đãi, kiểm soát chi phí hoa hồng, chiêu đãi và chi phí công tác cần được công khai, minh bạch, nhất quán cho toàn bộ nhân viên.

Thứ năm, thiết lập và đảm bảo việc vận hành hiệu quả kênh tố cáo hành vi sai phạm, tham nhũng của DN (do DN tự vận hành hoặc thuê công ty dịch vụ độc lập) để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo (kể cả ẩn danh) với chính sách, quy trình rõ ràng, dễ hiểu và tin cậy - làm cơ sở cho việc tăng cường giám sát thực thi các chính sách liêm chính của DN. Tùy theo điều kiện, DN có thể lựa chọn một đơn vị thứ ba thực hiện điều này để đảm bảo tính khách quan và bảo mật thông tin.

Thứ sáu, đánh giá thẩm định đối tác kinh doanh trước khi quyết định hợp tác kinh doanh. Đưa vào phạm vi rà soát những tiêu chí liên quan tới hành vi tham nhũng, hối lộ trong quá khứ, và năng lực phòng, chống rủi ro tham nhũng của đối tác.

Thứ bảy, ủng hộ và tham gia các hành động tập thể của hiệp hội, câu lạc bộ, nhóm DN, ví dụ: Nhóm Công tác về quản trị và liêm chính thuộc Diễn đàn DN Việt Nam, Sáng kiến Liêm chính trong kinh doanh trong khuôn khổ Đề án 12 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sáng kiến Hành động tập thể của các khu công nghệ cao quốc gia (gồm Khu Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh, Khu Công nghệ cao Đà Nẵng, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc) để cùng thúc đẩy và chia sẻ các chuẩn mực và thông lệ tốt về liêm chính trong kinh doanh, bảo vệ những DN là nạn nhân của tham nhũng, tố cáo những DN sử dụng tham nhũng để trục lợi và gây tổn hại tới DN khác.

Tuy nhiên, theo CENSOGOR, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho DN tham gia PCTN, một khuôn khổ thể chế đầy đủ, chặt chẽ, thống nhất là điều kiện tiên quyết. Điều này đòi hỏi Chính phủ cần tiếp tục cải cách và hoàn thiện pháp luật về PCTN trên cơ sở cân nhắc các văn bản luật chuyên ngành liên quan trực tiếp đến DN như Luật DN, Luật Chứng khoán, Luật Hải quan, các luật về thuế... Đồng thời, Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến PCTN trong kinh doanh của DN và hỗ trợ thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các sáng kiến này với các bên liên quan như cơ quan thuế, hải quan, cơ quan quản lý chuyên ngành, kiểm toán, các cơ quan đánh giá xếp hạng, nhà đầu tư, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và người lao động.

Thanh Lương