Theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, đảm bảo đến 1/7/2022, toàn bộ người nộp thuế sử dụng HĐĐT theo quy định của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 123/2020/NĐ-CP, Bộ Tài chính tổ chức thực hiện theo lộ trình 2 giai đoạn. Theo đó: Triển khai giai đoạn 1 tại địa bàn 6 tỉnh, thành phố (gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, Phú Thọ) từ trung tuần tháng 11/2021.

Triển khai giai đoạn 2 tại địa bàn 57 tỉnh, thành phố còn lại từ tháng 4/2022.

Theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng, pháp luật kế toán và pháp luật về hóa đơn, cơ sở kinh doanh khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ. Hóa đơn là tài liệu ghi nhận giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giữa người bán và người mua.

Trước năm 2011, căn cứ quy định tại Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 7/11/2002 của Chính phủ quy định về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn, Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) đặt in hóa đơn để bán cho tất cả các cơ sở kinh doanh trên cả nước.

Ngày 14/5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP quy định về hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ và theo đó đã có sự thay đổi trong cơ chế phát hành, quản lý hóa đơn. Cụ thể là chuyển đổi phương thức phát hành, quản lý hóa đơn từ cơ chế “doanh nghiệp mua hóa đơn của Cơ quan thuế” sang cơ chế “doanh nghiệp tự đặt in, tự in hóa đơn hoặc sử dụng HĐĐT nếu đủ điều kiện” để sử dụng.

Từ năm 2014, theo Nghị định số 04/2014/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 51/2010/NĐ-CP, doanh nghiệp thuộc diện rủi ro phải mua hóa đơn của Cơ quan thuế để sử dụng trong 12 tháng sau đó mới được chuyển sang sử dụng hóa đơn đặt in, tự in hoặc HĐĐT (HĐĐT) nếu đủ điều kiện.

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 hướng dẫn chung về hoá đơn và Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011 hướng dẫn về hoá đơn điện tử của doanh nghiệp (không có mã xác thực của Cơ quan thuế).

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014, ngành Thuế đã phát hiện một số đối tượng lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp trong thủ tục thành lập doanh nghiệp để thành lập nhiều doanh nghiệp hoặc mua lại doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp này không kinh doanh nhưng được sử dụng hóa đơn, xuất hóa đơn khống, sử dụng hóa đơn lòng vòng để khấu trừ, hoàn khống thuế giá trị gia tăng hoặc rút tiền thanh toán từ ngân sách nhà nước, không kê khai nộp thuế để trốn thuế.

leftcenterrightdel
Các đối tượng và hàng chục con dấu, tài liệu phục vụ việc mua bán hoá đơn khống. Ảnh: Thái Thanh 

Để hạn chế các trường hợp lợi dụng gian lận trong việc sử dụng hóa đơn, tại Điều 5 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế đã quy định:Người nộp thuế (bao gồm cả tổ chức và cá nhân) kinh doanh thuộc trường hợp rủi ro cao về thuế thì lập HĐĐT và gửi thông tin trên hóa đơn bằng phương thức điện tử cho Cơ quan thuế để nhận mã xác thực hóa đơn từ Cơ quan thuế”. Theo đó, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1209/QĐ-BTC ngày 23/6/2015 thí điểm sử dụng HĐĐT có mã xác thực của Cơ quan thuế.

Theo các quy định trên, các doanh nghiệp đang sử dụng 2 loại HĐĐT: HĐĐT không có mã xác thực của Cơ quan thuế theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC (Cơ quan thuế không công bố định dạng chuẩn dữ liệu mà doanh nghiệp tự xây dựng định dạng) và HĐĐT có mã xác thực của Cơ quan thuế theo Quyết định số 1209/QĐ-BTC.

Việc áp dụng HĐĐT mang lại nhiều lợi ích, cụ thể: HĐĐT góp phần giảm thời gian, chi phí về hoá đơn cho doanh nghiệp, góp phần hạn chế các hành vi gian lận về hoá đơn. HĐĐT giúp doanh nghiệp giảm chi phí giấy, mực in, vận chuyển và đặc biệt chi phí lưu trữ hóa đơn. Doanh nghiệp không phải lập báo cáo sử dụng hóa đơn, dữ liệu từ HĐĐT được kết nối tự động với phần mềm khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) nên doanh nghiệp không mất thời gian lập Tờ khai thuế GTGT. HĐĐT có tính bảo mật cao vì sử dụng chữ ký số của người bán nên khả năng làm giả hóa đơn là khó. Vì vậy, việc sử dụng HĐĐT thay thế hóa đơn giấy (hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in) sẽ góp phần phát hiện sớm các gian lận phát sinh trong việc sử dụng hóa đơn.

Để nâng cao tính pháp lý của việc sử dụng, quản lý hóa đơn, chứng từ, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 đã bổ sung 1 Chương quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử với nguyên tắc khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập HĐĐT (HĐĐT có mã của cơ quan thuế hoặc HĐĐT không có mã của Cơ quan thuế) để giao cho người mua theo định dạng chuẩn dữ liệu. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về hóa đơn, chứng từ theo Luật Quản lý thuế, Luật thuế GTGT, Luật kế toán, Luật giao dịch công nghệ.

leftcenterrightdel
Triển khai hoá đơn điện tử theo quy định của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP có ý nghĩa hết sức quan trọng trong trong việc chuyển đổi phương thức quản lý, sử dụng HĐĐT và giúp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, cho xã hội 

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 78/2021/TT-BTC ngày 17/9/2021 hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Quản lý thuế ngày 13 tháng 6 năm 2019, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ. Đồng thời, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 1450/QĐ-TCT ngày 7/10/2021 quy định thành phần chứa dữ liệu nghiệp vụ HĐĐT và phương thức truyền nhận với Cơ quan thuế và Quy trình quản lý HĐĐT theo Quyết định số 1447/QĐ-TCT ngày 5/10/2021 để phục vụ triển khai HĐĐT theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP và Thông tư số 78/2021/TT-BTC.

Theo các quy định tại các văn bản nêu trên doanh nghiệp đã sử dụng HĐĐT theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC sẽ chuyển đổi định dạng hóa đơn theo quy định chuẩn định dạng của Cơ quan thuế để chuyển dữ liệu hóa đơn cho người mua và chuyển đến Cơ quan thuế qua đơn vị trung gian. Một số ít doanh nghiệp sử dụng hóa đơn số lượng lớn, có hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng điều kiện sẽ kết nối trực tiếp để chuyển dữ liệu hóa đơn cho cơ quan thuế như VNPT, Viettel...

Thực hiện quy định tại khoản 4 Điều 92 Luật Quản lý thuế, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã quy định tiêu chí lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ về HĐĐT để ký hợp đồng cung cấp dịch vụ HĐĐT có mã của cơ quan thuế và dịch vụ nhận, truyền, lưu trữ dữ liệu hóa đơn và các dịch vụ khác có liên quan tại Điều 10 Thông tư số 78/2021/TT-BTC. Đến nay, Tổng cục Thuế đã tiếp nhận đề nghị và ký hợp đồng với 18 tổ chức truyền nhận dữ liệu HĐĐT và đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế để NNT có thông tin lựa chọn dịch vụ theo yêu cầu.

Ban Mai